Luận về Tinh Khí Thần
và các đan điền liên quan
Tinh Khí Thần là ba
kho tàng vô giá có sẵn trong cơ thể, nhưng phải có thời gian mới hình thành
toàn vẹn, và cần được tôi luyện thường xuyên trong suốt quá trình của cuộc sống
thì mới phát huy được hết tác dụng. Gọi là kho tàng vì Tinh Khí Thần sung mãn,
đời sống sẽ phát triển, còn Tinh Khí Thần khô cạn đời sống sẽ tàn, bởi vậy mới
nói rằng, Tinh Khí Thần là nguồn gốc của sự sống.
A. TINH(essence)
Tinh là phần trong
sáng nhất của sự vật
I. PHÂN LOẠI TINH
Tinh chỉ có một nhưng
tùy góc độ có thể phân thành nhiều dạng
a. Về góc độ nguồn gốc có Tinh Tiên Thiên và Tinh Hậu Thiên
Tinh Tiên Thiên hay bẩm sinh do Tinh và Huyết của cha mẹ truyền cho và là cơ sở
của các dạng Tinh khác.
Tinh Tiên Thiên có
hai chức năng:
- Duy trì tính chất duy truyền của gene AND
- Bảo đảm sự sinh sản của giao tử và sự phát triển của phái tính
thứ phát.
Tinh Hậu Thiên hay Hậu Đắc do ẩm thực mang lại qua chức năng của Tùy Vị và được
phân bố vào phủ tạng
b. Về góc độ chức năng có:
- Tinh phủ tạng hay Tinh dinh dưỡng
- Tinh sinh dục duy trì nòi giống
II. NƠI TRỤ CỦA TINH
1. Tinh tích tụ ở thận
“Thận tàng tinh, nạp khí”
(Hoàng đế Nội Kinh)
Thở Thận trong khí
công tăng cường Tinh và Khí
2. Tinh còn trụ ở mệnh môn, (bể của tinh) mà cũng là huyệt trụ của Khí Tiên Thiên. Thở
mệnh môn tăng cường cả Tinh lẫn Khí Tiên Thiên, rất tinh khiết và nhiều năng
lực nhất.
KHÍ
Khí là sinh lực của
cơ thể (1)
I. PHÂN LOẠI KHÍ
A .Phân loại khí theo
nguồn gốc
Theo nguồn gốc có Khí Tiên Thiên và Khí Hậu Thiên. Trong khi Tiên Thiên có Nguyên Khí và
Tông Khí; trong Khí Hậu Thiên có thiên địa khí và Thủy cốc Khí
1.Tiên Thiên Khí
a. Nguyên Khí
Nguyên Khí là khí
Tiên Thiên do Dương (tinh trùng) của cha và Âm (noãn sào) của mẹ kết hợp lại và
truyền cho. Nó có trước khi hình thành bào thai, nên mang tính chất di truyền
và nằm trong gene. Nguyên Khí yếu sẽ đưa đến Tiên thiên bất túc, vì chính nguyên
khí thúc đẩy sự phát triển của bào thai và sau này của thai nhi. Nó là động cơ
thúc đẩy con người phát triển và một khi khô cạn sẽ gây tử vong, nói một cách
khác Nguyên Khí ảnh hưởng đến sự sống chết của thai nhi, hay sự chết yểu của
một trẻ em.
Huyệt trụ của Nguyên Khí là Mệnh Môn. Mệnh Môn cũng là huyệt trụ của Tông Khí tức khí bẩm sinh,
một khí Tiên Thiên khác do mẹ truyền cho trong một thời kỳ mang thai qua nhau
và cuống rốn.
Đường vận chuyển
chính của nguyên khí là Xung mạch.
Một con đường vận hành
thứ hai là Tam Tiêu, và từ kinh này nguyên khí được vận chuyển ra ngoài da và
vào 12 kinh.
Nguyên khí bị suy
giảm trong một số trường hợp sau đây:
- Nguyên khí yếu
từ lúc mới sinh như đã trình bày ở trên.
- Mắc bệnh mãn
tính hay nặng như ung thư, lao.
Nguyên khí đóng một
vai trò liên quan đến việc sinh tinh trùng hay noãn sào. Dâm dục quá độ làm hao
mòn Nguyên Khí đưa đến suy nhược, chóng già. Trường phái Lão Tử chú trọng tới
việc luyện co bóp hậu môn để không cho phóng tinh lúc giao hợp là cốt giữ
Nguyên Khí
Nhận định như trên là
chấp nhận nguyên lý Tinh Khí Thần bất khả phân, do đó tập luyện thở thận và thở
Mệnh Môn tăng cường Nguyên Khí cũng như Tông Khí, và cũng là Luyện Tinh
b. Tông Khí
Tông Khí là khí Tiên Thiên do mẹ truyền cho
thai qua nhau và cuống rốn. Tông Khí mạnh hay yếu tùy thuộc rất nhiều vào sức
khỏe của người mẹ trong suốt thời kì mang thai. Huyệt mộ của Tông khí cũng là
mệnh môn.
2.KHÍ HẬU THIÊN
2.KHÍ HẬU THIÊN
A .Phân loại khí theo
nguồn gốc
a. Thiên Khí
Thiên Khí là khí thu hút từ khí trời,
qua bốn cữa ngõ tự nhiên là mũi, hậu môn và và hai bàn tay với huyệt Lao Cung.
Những nhà khí công điêu luyện có thể thu hút nguyên khí qua làn da của cơ thể.
b. Địa Khí
Địa Khí được thu hút qua bàn chân
(huyệt dũng tuyền) và miệng. Địa Khí mang nhiều ion (+), Thiên Khí mang nhiều
ion (-).
Địa khí gồm có Thổ Khí và thủy Cốc Khí.
Tư thế kiết già hay bán già có bề mặt của hạ bộ chạm với đất tương đối rộng,
nên giúp hấp thu được nhiều Thổ Khí.
Thủy Cốc Khí do tiết thực hàng ngày
mang lại qua miệng và có tác dụng chủ yếu là dinh dưỡng. Gọi là Thủy Cốc
Khí nhưng đây là khí của tất cả các loại ẩm thực mang vào cơ
thể qua miệng để duy trì các chức năng sinh tồn. Tỳ Vị là tạng chủ của Thủy Cốc
Khí (bảng1).
B. Phân loại khí theo âm dương và ngũ
hành
Theo Âm – Dương, có Âm Khí và Dương
Khí; Theo ngũ hành có Mộc Khí, Hỏa Khí, Thủy Khí, Thổ Khí, Kim Khí, Tức ngũ
hành khí.
Âm khí và Dương Khí của ngũ tạng, mang
tình chất của ngũ hành với quy luật sinh khắc.
C. Phân loại theo tính chất.
1. Chân Khí
Chân khí là khí có hoạt tính cơ năng
luân lưu trong kinh mạch mà Lãn Ông gọi là Doanh khí hay vị khí, vì Vị có chức
năng chuyển hóa thức ăn uống thành Khí nuôi dưỡng cơ thể.
Chân khí còn do khí Tiên Thiên và khí
Hậu Thiên tạo thành.
Vận khí và luyện nội lực trong khí công
gọi là Chân Khí.
2. Tà khí
Tà khí là khí không trong sạch còn gọi
là Lục dâm hay Lục khí.
Lục khí gồm có:
a.Ba khí dương là:
- Hàn Khí thuộc Thủy
- Táo khí thuộc Kim
- Hoả khí thuộc tướng Hỏa
b. Ba khí Âm là:
- Thử khí hay nhiệt khí thuộc Quân Hỏa
- Phong khí thuộc Mộc
- Thấp khí thuộc Thổ
Trong Lục Khí thì Hàn Khí và Hỏa Khí là
chính. Lục dâm ảnh hưởng tới môi sinh và khi được thu hút hay hấp thu vào cơ
thể có thể gây rối loạn sinh lý hay gây bệnh vì:
·
Hàn Khí hại Can
·
Táo Khí hại Phế
·
Hỏa Khí hại Tâm
·
Thử Khí hại Thận
·
Phong Khí hại Tâm bào, Tam tiêu
·
Thấp Khí hại Tỳ
Trong luyện tập khí Công, cần lựa chọn
nơi tập không có hay có ít Lục dâm. Dù sao chân khí xung mãn có thể hóa giải
phần nào được Lục dâm. Tập xong phải Xả là để đào thải hết Tà Khí.
Ngoài ra lục khí còn chịu sự chi phối
của Ngũ Hành, Kim Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Ngũ Hành vận chuyển trong ngày theo nhịp
sinh học: giờ Mão thuộc Mộc, giờ Ngọ thuộc Hỏa, giờ Dần thuộc Kim, giờ Tý thuộc
Thủy. Do đó, tập khí công vào những giờ Mão, Ngọ, Dần , Tý có mục tiêu tập luyện theo nhịp sinh
học của Ngũ vận, lục khí và đồng thời giúp cơ thể thích nghi với môi trường và
hình thành những phản xạ có điều kiện cấp cao chống lại những xung kích của lục
dâm.
Trong Đông Y có môn Y Dịch Khí, dựa vào
sự vận hành của Lục Khí trong mối liên hệ với ngũ hành và Lục Phủ để chẩn đoán
và điều trị.
D. Phân loại theo vị trí của Khí đối
với châu thân
Theo vị trí có Nội khí và Ngoại khí
1. Nội khí và Khí luân lưu bên trong cơ
thể, trong phủ tạng ,kinh mạch.
2. Ngoại khí là Khí xuất phát từ bên
trong cơ thể và bao quanh cơ thể thành một từ trường phát hào quang có màu sắc
(Manning 1992, Brennan 1987) Từ trường này phóng ra những tia xạ coi như một
tín hiệu truyền thông mà một số tác giả cho rằng có thể bắt tín hiệu từ xa qua
cơ chế ngoại cảm hay thần giao cách cảm.
E. Phân loại khí theo chức năng
Theo chức năng có Vinh khí và Vệ khí.
Vinh khí hay Dinh khí nuôi dưỡng, Vệ khí che chở; hai loại khí này kết hợp
để bảo vệ sức khỏe.
1.Vinh Khí
Vinh khí luân lưu trong các kinh mạch.
Vinh khí mạnh hay yếu tùy thuộc vào tiết thực. Tiết thực quá độ hay nhiều chất
mỡ, gia vị, uống rượu làm loạn Vinh khí. Tiết thực quá thiếu làm giảm lực của
Vinh khí.
Huyệt mộ của Vinh khí là Thần Khuyết.
Xoa bóp vùng Tùng mặt trời chuyển vận khí quanh rốn làm tăng cường Vinh khí.
Vinh khí có chức năng tương tự như
oxygen, nhưng về bản chất thì khác hẳn .
Vinh khí bảo đảm chức năng của Tạng đặc
và rỗng. Mỗi cơ quan chuyển hóa Vinh Khí thành Khí đặc hiệu phù hợp với chức
năng, do đó mới có Can khí, Tâm Khí, Phế Khí, Thận Khí, Tỳ Khí.
Phế khí chủ bì mao, thuộc Kim; Tâm Khí
chủ huyết mạch thuộc Hỏa; Can Khí chủ Cân (màng gân) thuộc Mộc, Tỳ khí chủ bắp
thịt, thuộc Thổ; Thận Khí chủ xương, thuộc Thủy.
2.Vệ khí không đi theo kinh
mạch, mà đi vào khoảng giữa da thịt tức phần ngoại mạch. Vệ khí bốc mạnh nên có
thể khuếch tán vào các vùng rỗng, ở khoang ngực bụng.
Thở bằng cơ hoành trong Khí công, và
nhất là trong thở Nội công có công dụng giúp Vệ Khí khuếch tán và luân lưu khắp
cơ thể.
Vệ Khí cũng được tăng cường trong tập
luyện vũ thuật, hay động công, cũng như ngoại công, tức trong các động tác vận
động cơ bắp, gân, cân, cụ thể như trong môn Thiết Bố Sam.
Vệ Khí có chức năng bảo vệ cơ thể chống
lại những Tà khí, những thay đổi của thời tiết, để điều hòa thân nhiệt.
Vệ khí còn giúp cơ thể chống nhiễm
trùng, tức tham gia vào hệ thống miễn dịch.
I. KHÍ VÀ HUYẾT
“Phế là cơ quan chủ khí, Thận là cơ
quan nạp khí: Tâm là cơ quan chủ Huyết, Can là cơ quan chứa Huyết” (Lãn Ông).
Bàn về khí, không thể không nói tới
huyết. Giữa Khí và Huyết có mối quan hệ khắng khít, với Khí là tướng soái. Khí
vận hành thì Huyết cũng vận hành theo. Khí ngưng thì Huyết cũng ngưng lại, Khí
bị trì trệ thì Huyết cũng bị ứ đọng (3) Nói thế để xác định là tập luyện vận
khí trong Khí công là khai thông huyết mạch.
II. KHÍ VÀ THẤT TÌNH
“Trăm
bệnh sinh ra đều do khí” (Lãn Ông).
Một trong những nguyên nhân làm rối
loạn Khí và từ đó gây bệnh là thất tình, vì:
Giận quá làm Khí nghịch lên
Bi ai làm Khí tiêu tan
Sợ hãi làm Khí không lưu hành được
Lo nghĩ làm Khí kết lại
Xóa bỏ hay làm dịu thất tình trong tập
luyện Khí công, để tâm bình là ngăn chặn rối loạn Khí.
THẦN (MIND)
Hay Tâm Thần (Heart Mind)
Một số tác giả khi nói tới Tâm dùng chữ
Tâm Thần vì Tâm tàng Thần. Thần là kết quả của hoạt tính cao độ của não là
chính, nhưng nó cũng là biểu hiện của hoạt động của toàn cơ thể, Phủ tạng, Kinh
Mạch,… vì thế mới nói mắt có Thần.
Cũng như Tinh và Khí có Thần bẩm sinh
hay Tiên Thiên (Nguyên Thần) gốc từ Tinh của cha mẹ và Thần Hậu Thiên, gốc từ
hoạt động của não qua quá trình cuộc sống tạo thành. Thần Hậu Thiên chịu ảnh
hưởng sâu đậm của xã hội và cá nhân với thất tình, tham sân si. Do đó Thần Hậu
Thiên thường làm lu mờ Thần Tiên Thiên đưa đến những hành vi tiêu cực.
Điều tâm trong 6 khí công kết hợp với
điều thân và điều tức gạt bỏ Thần (Tâm) Hậu Thiên với tạp niệm để trở về với
Thần (Tâm) Tiên Thiên và đạt được Tâm Bình
LIÊN HỆ GIỮA TINH KHÍ THẦN
Tinh Khí Thần trong một cơ thể là bất
khả phân, và không hiện diện đơn độc. Người xưa quan niệm Thần di động cùng với
Khí. Tập Khí công cũng lấy Ý dẫn Khí (Ý Khí hợp nhất). Tính lại hiện diện
ngay trong lòng của Thần, nên Khí đóng vai trò trung ương theo sơ đồ dưới đây.
Tinh, gốc của sự sống, được nuôi dưỡng
hằng ngày bởi Khí sau sanh và chịu ảnh hưởng của Chân Khí và Nguyên Khí.
Khí sinh ra từ Tinh. Tinh cường tráng
thì Khí dồi dào. Do đó như đã nói ở trên trường phái Lão Tử chủ trương tiết chế
tình dục và tập luyện bế tinh trong lúc giao hợp bằng co thắt hậu môn. Ngược
lại bằng luyện tập Khí có thể tăng cường tinh.
Thần do Khí nuôi dưỡng, và ngược lại
tập trung tư tưởng sẽ dễ luyện khí.
Trong Khí công luyện Tam điền quy
nguyên là lần lượt luyện khí từ đan điền Tinh, đến đan điền Khí rồi đan điền
Thần, như vậy vô hình trung cũng là luyện Tinh thành Khí. Luyện Khí thành Thần.
Tinh Tiên Thiên là tinh thanh khiết,
nên luyện Tinh Tiên Thiên thành Khí sẽ được Khí trong sạch nhất.
Sau cùng.
Đứng về phương diện nhất nguyên
luận, thiết nghĩ không những Tinh Khí, Thần không tách rời nhau được, vì
thực ra Tinh Khí Thần là một, một đây là Khí mà Tinh và Thần chỉ là những dạng
hoạt tính. Nói một cách khác Tinh là trạng thái gốc của Khí, Thần là hoạt tính
cao độ của khí (H.5).
Nhận định như trên thì trong Khí
công, luyện Khí là gián tiếp luyện Tinh và Thần, và trong điều trị, tăng
cường khí lập lại quân bình của Khí âm và Khí dương, là điều trị những rối loạn
của Thần hay Tâm và của Tinh.
Mục tiêu tối hậu của khí công là:
“Tồn thần để tăng Khí, tồn Khí để tăng
Tinh; luyện Tinh thành Khí, luyện Khí thành Thần; luyện thần hoàn hư” Luyện Thần hoàn hư đi đến chỗ
vắng lặng hoàn toàn, là cấp bậc tối thượng của Khí công. Bình thường thì chỉ
đạt cấp bậc Tâm bình tức gạt bỏ Thần hay Tâm hậu thiên, để trở về
với Thần hay Tâm Hậu Thiên (xem hình 2) là đủ bảo vệ sức khỏe và
tăng tuổi thọ cũng như hòa với mọi người, bởi vì tâm bình thiên hạ bình.
ĐAN ĐIỀN VÀ CÁC ĐAN ĐIỀN CỦA TINH KHÍ
THẦN
I. ĐAN ĐIỀN
(Đan: viên thuốc trường sinh,(bill of
immortality)
Trước hết các tác giả đều nhất trí, từ
“Đan Điền” đứng một mình là chỉ vùng bụng dưới chạy từ huyệt trung cục (MN3)
đến huyệt trung quản (MN12) trên Nhâm mạch; về định vị, nó nằm đằng sau rốn
giữa huyệt Thần Khuyết ở đằng trước và Mệnh Môn ở đằng sau. Đan Điền có liên hệ
với mệnh Môn và Thận.
Qua Đan Điền, là đường đi của mạch
Nhâm, Xung mạch, Đới mạch, Âm Kiều mạch, Kinh Thận, Kinh Vị, Kinh Tỳ, Kinh Can
nên luyện Đan Điền tác động vào các phủ tạng.
Tóm lại: Đan Điền là cái trục để chứa
Khí và vận Khí cả Dinh Khí lẫn Nguyên Khí vì vậy người xưa gọi Đan Điền là “nơi
mà ngũ khí trở về cội nguồn” là nơi mà “Tinh Khí và Ngũ Tạng kết hợp”. Sau cùng
Đan Điền là vùng phát sinh khí” và là “Gốc của sự sống”, Điều này giải thích sự
quan trọng của thở bụng và bằng cơ hoành trong Khí công và ý nghĩa của câu “Khí
Trầm Đan Điền”
II.CÁC ĐAN ĐIỀN CỦA TINH KHÍ THẦN
Vị trí
Vị trí chính xác của các Đan Điền Tinh
Khí Thần còn nhiều bàn cãi (xem bảng 2)
Đa số tác giả chấp nhận Đan Điền Thần ở
vùng Bách Hội – Ấn Đường, Đan Điền Khí nằm ở vùng Khí Hải – Thần Khuyết, còn
Đan Điền Tinh ở vùng Quan Nguyên – Hội Âm. Luyện các Đan Điền này là tác động
vào các huyệt trụ của Tinh hay Khí hoặc Thần.
III. LIÊN HỆ GIỮA CÁC ĐAN ĐIỀN
Giữa các Đan Điền có mối liên hệ hai
chiều qua lại theo sơ đồ dưới đây:
Sự liên hệ giữa các Đan Điền (H.8)
chứng minh một lần nữa Tinh và Thần Khí là hai dạng chức năng của một thực thể
là Khí. Luyện Tinh thành Khí, Khí thành Thần là luyện hóa Khí từ dạng tiên
thiên, tức Nguyên Khí (Tinh) sang dạng Chân Khí nuôi dưỡng cơ thể rồi dạng có
chức năng cao độ (Thần). Có thể ví như trên một cây trồng xuống đất thì rễ là
Tinh, nhựa là Khí, hoa quả là Thần. Hoa quả nhả hạt để sinh cây theo quy luật
phản phục của dịch lý. Trên người cũng vậy, luyện Tinh thành Khí, luyện Khí
thành Thần. Thần phải giúp người thu hút Khí và luyện Khí đắc lực.
THẬN VÀ TINH KHÍ THẦN
Về phương diện Tinh – Khí – Thần, thận
đóng vai trò rất quan trọng vì thận tàng Tinh nạp Khí.
Luyện vùng thận tăng cường Khí Hậu
Thiên và chuyển Khí này thành Chân Khí.
Luyện huyệt Mệnh Môn tăng cường Khí bẩm
sinh, cũng chuyển Khí này thành Chân Khí.
Luyện Đan Điền Tinh là luyện các huyệt
chủ của cơ quan sinh dục: Quan Nguyên, Hội Âm. Luyện Tinh thành Khí làm thận
sung mãn, và tản Khí vào các kinh mạch nuôi dưỡng phủ tạng.
Còn trên quan điểm thận gồm cả cơ quan
sinh dục, thì thận không những tàng Tinh mà còn sinh Tinh. Chính vì lẽ này mà
thận là gốc của phủ tạng, và có vai trò chủ yếu trong luyện Tinh – Khí – Thần.
Cũng vì thận tàng Tinh và sinh Tinh nên
thận kỵ thử Khí. Tinh trùng không sinh tồn được ở nhiệt độ trên 36oC.
Thận và Khí huyết
“Tỳ
vị là cha của Khí huyết, tâm thận là mẹ của Khí huyết, Can phế là nơi lưu trú
của Khí huyết” (Lãn Ông).
Huyết gốc ở thận.
Khí dẫn huyết, Khí đi tới đâu, huyết đi
tới đó như âm không lìa dương; huyết thuộc âm thủy, Khí thuộc dương hỏa. Thận
nạp Khí nên thân là nơi đón nhận nhiều huyết nhất trong cơ thể (1.200 ml/phút).
Ngoài ra, thận còn vận Khí. Khí luân
lưu được trong cơ thể là nhờ điểm chân dương Tiên Thiên của thận. Đây là ông tổ
của Khí vì vậy mới nói rằng “huyết gốc ở thận”.
Huyết được gạn lọc ở thận.
Tại thận huyết được “gạn lọc” nên thận
hư sẽ gây độc cho toàn thân.
Tóm lại, đối với Khí, thận nạp Khí và
vận Khí, đối với huyết thận “sinh huyết” và thanh lọc “huyết”.
Như vậy, Đông y và Tây y đã gặp nhau
trên hai điểm:
1. Thận là cơ quan đón nhận nhiều máu
nhất, và tiết eryprotein sinh hồng cầu.
2. Thận là nơi đào thải những cặn bã
của chuyển hóa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét