LINH AN KHI DAO

Breaking

Chủ Nhật, 5 tháng 4, 2020

THE THIRD EYE - VÀI TRÍCH ĐOẠN


Tác giả: Tuesday Lobsang Rampa





---------------------------------ooOoo---------------------------------
Ở những vùng sơn cước, người ta đem ngâm những đứa trẻ sơ sinh dưới suối nước lạnh và xem chúng có đủ sức chịu đựng dẻo dai hay không, để có quyền sống như mọi người. Tôi thường thấy những người đi diễu hành đến một ngọn suối, ở một vùng núi non chiều cao trên sáu ngàn thước. Đến bờ suối, đoàn người dừng lại, một bà lão bồng đứa trẻ sơ sinh trên tay, rồi cả gia đình gồm cha, mẹ và thân quyến đứa trẻ ngồi vây chung quanh bà. Khi người ta lột hết áo quần đứa trẻ, bà lão bèn ngâm thân mình đứa bé sơ sinh dưới nước suối, chỉ còn thấy cái đầu nhô lên khỏi mặt nước. Dưới nước suối lạnh buốt, thân mình đứa trẻ trở nên đỏ au, rồi xanh giờn, những tiếng kêu của nó đã im bặt, nó không còn kêu la phản đối nữa. Nó có vẻ chết lịm, nhưng bà lão đã từng kinh nghiệm nhiều về việc này bèn rút nó lên khỏi mặt nước, lau chùi khô ráo và mặc quần áo lại cho đứa bé. Nó sống lại chăng? Đó là các thần linh đã quyết định như thế. Nếu nó chết, thì đó lại càng hay vì nó khỏi phải chịu những sự khổ đau về sau này của cuộc đời trần thế! Người ta không thể làm gì khác hơn dưới một khí hậu gắt gao như ở Tây Tạng. Không nên có những kẻ bệnh hoạn, yếu đuối ở một xứ mà mọi phương tiện cứu trợ y tế đều thiếu thốn: Thà để vài đứa bé sơ sinh chết còn hay hơn.
---------------------------------ooOoo---------------------------------
Chương trình học của chúng tôi gồm có Hán văn, chữ Tây Tạng, toán học và khắc bản gỗ. Tiếng Tây Tạng có hai ngôn ngữ khác biệt, tiếng phổ thông và thể kính ngữ. Chúng tôi sử dụng tiếng phổ thông khi nói với người hầu và những người thuộc tầng lớp thấp hơn, còn thể kính ngữ được dùng đối với những người tầng lớp ngang bằng hoặc cao hơn: Con ngựa của người ở tầng lớp cao hơn cũng phải được nói chuyện theo cách kính ngữ! Ví như con mèo độc đoán của chúng tôi đang rình rập ngang qua sân trong một công việc bí ẩn nào đó, gia nô sẽ nói chuyện với nó: “Puss Puss tôn kính có thể hạ cố đến uống sữa hỏng được không ạ?" Dù có nói với “Puss Puss tôn kính” thế nào chăng nữa, cô ta cũng sẽ không đến trừ khi cô ta muốn.
Lớp học của chúng tôi là một gian phòng rất rộng có thể chứa độ sáu chục đứa trẻ. Chúng tôi ngồi xếp bằng trên sàn gạch, trước một cái bàn hay một cái ghế dài, cao độ năm tấc tây và ngồi xoay lưng về phía thầy để không thể biết rằng thầy có nhìn mình hay không. Thầy bắt chúng tôi học một cách rất kham khổ và không để chúng tôi nghỉ ngơi một giây phút nào. Giấy ở Tây Tạng được làm bằng tay và rất đắt tiền, quá tốn kém để trẻ con lãng phí. Chúng tôi thường sử dụng những bảng đá đen, những phiến đá mỏng và lớn chừng mười hai và mười bốn inche mỗi chiều. “Bút chì” của chúng tôi là một loại phấn cứng có thể lấy trên các ngọn đồi Tsu La, cao hơn Lhasa khoảng mười hai ngàn feet, mà Lhasa đã cao hơn mực nước biển mười hai ngàn feet. Tôi đã từng cố gắng lấy phấn màu đỏ nhạt, nhưng chị Yaso lại rất rất thích phấn mềm màu tím. Chúng tôi có khá nhiều phấn màu khác nhau: đỏ, vàng, xanh da trời, và xanh lá cây. Một số màu sắc, tôi tin, là do có các quặng kim loại trong nền đất. Cho dù là vì sao đi chăng nữa thì chúng tôi cũng rất vui thích khi có chúng.
Số học làm tôi chán thực sự. Nếu có bảy trăm tám mươi ba nhà sư, mỗi người ăn hết hăm mươi hai cốc tsampa mỗi ngày, và mỗi cốc chứa được năm mươi tám panh, bình chứa cần phải có kích thước như thế nào để đủ cung cấp cho một tuần? Chị Yaso có thể làm những bài này và chả có vấn đề gì với nó. Còn tôi, vâng, tôi thì không thấy sáng sủa như vậy.
Tôi trở về phòng riêng của mình khi chạm khắc. Đó làm môn học mà tôi rất thích và có thể làm khá tốt. Về việc ấn loát ở Tây Tạng, người ta thường dùng những bản gỗ có khắc chữ, nên việc khắc bản gỗ được coi như một bộ môn rất hữu ích. Trẻ con chúng tôi không có gỗ để mà lãng phí. Gỗ rất đắt vì được mang đến từ Ấn Độ. Gỗ Tây Tạng rất dai, khó cắt và thớ không phù hợp. Chúng tôi sử dụng loại vật liệu mềm của đá Xte-a-tit, nó có thể cắt được dễ dàng bằng dao. Đôi khi chúng tôi sử dụng phomat bò yak đã hỏng!
Có một phần trong chương trình học mà tôi không bao giờ quên là lặp lại những Điều Răn tôn giáo. Chúng tôi phải đọc những Điều Răn này khi vào lớp và lặp lại một lần nữa trước khi rời khỏi lớp vào giờ tan học. Đó là: 
Hãy lấy ân báo ân, lấy đức báo đức 
Đừng ăn hiếp những kẻ hiền lành 
Hãy siêng đọc các kinh điển và giáo lý 
Hãy giúp đỡ kẻ đồng loại 
Luật pháp khắc nghiệt đối với kẻ giàu sang 
Để dạy họ sự thông cảm và sự công bằng 
Luật pháp khoan hồng đối với kẻ nghèo hèn để an ủi họ 
Hãy trả dứt nghiệp quả nợ nần càng sớm càng tốt
Để cho chúng tôi không thể nào quên, những Điều Răn đó được viết trên những tấm bảng đóng trên bốn vách tường của lớp học.
Tuy nhiên, cuộc đời hàng ngày của chúng tôi không phải hoàn toàn dành cho sự học và sự sống khắc khổ. Chúng tôi cũng lao mình vào những cuộc chơi điền kinh, thể dục một cách hăng say ngoài giờ học. Những môn thể dục này được đặt ra để tạo cho chúng tôi một thể xác cường tráng có thể chịu đựng khí hậu vô cùng gắt gao của xứ Tây Tạng. Ở xứ này, vào lúc giữa trưa mùa hè nhiệt độ lên rất cao và ban đêm có thể xuống thấp dưới không độ. Vào mùa đông, thời tiết còn lạnh hơn thế rất nhiều.
Bắn cung, một môn thể dục rất tốt để làm nở nang bắp thịt và để tập nhắm đích một cách chính xác, là bộ môn mà chúng tôi rất thích. Cung nỏ của chúng tôi dùng đều làm bằng gỗ mun nhập cảng từ Ấn Độ; người ta chế tạo những cái ná bằng gỗ bản xứ. Là Phật tử chân chính, chúng tôi không bao giờ bắn các loài thú vật. Để tập bắn cung, chúng tôi dùng những cái bia di động, mà những kẻ gia nô núp ở chỗ khuất cầm dây kéo lên hoặc hạ xuống bất thần mà không cho chúng tôi hay. Phần nhiều những bạn hữu của tôi có thể bắn trúng đích trong khi họ sãi ngựa như bay. Về phần tôi, trái lại, tôi không thể ngồi vững trên lưng ngựa được lâu như thế!
Nhảy xa lại là vấn đề khác. Môn thể thao này không có ngựa để tôi phải bận tâm. Chúng tôi chạy nhanh hết mức có thể, mang theo một cây sào dài năm mét, sau khi tốc độ đạt mức tối đa, chúng tôi chống sào để nhảy vọt xa. Tôi thường nói rằng những người khác bị mắc kẹt trên lưng ngựa lâu đến nỗi họ không có sức mạnh ở đôi chân, nhưng tôi, người thường xuyên phải sử dụng đôi chân của mình, thực sự có thể nhảy sào. Nó quả là cách tốt để băng qua suối, và rất thích thú khi nhìn những người đang cố gắng theo sau tôi lao xuống nước, người nọ nối tiếp người kia.
Một trò chơi tiêu khiển khác là đi cà kheo. Chúng tôi dùng hai cây cà khêu, giống như hai cây nạng gỗ nhưng rất dài, có bàn đạp để xỏ hai chân vào đó, và sau khi đã ngụy trang làm những người khổng lồ, chúng tôi thường xáp chiến với nhau trong những cuộc đấu sức dị kỳ, kẻ thua là kẻ bị té ngã trước nhất. Cà kheo do chúng tôi tự làm, chúng tôi không chỉ lượn xung quanh tới các cửa hàng gần nhất và mua những thứ như vậy. Chúng tôi phải sử dụng hết khả năng của mình để thuyết phục người coi kho – thường là người quản gia – sao cho chúng tôi có thể xin được những mảnh gỗ phù hợp, thớ vừa phải, và không được có hốc mắt gỗ. Sau đó, chúng tôi phải kiếm được những mẫu gỗ nêm phù hợp nhất để làm chỗ để chân. Vì gỗ rất khan hiếm không được lãng phí, chúng tôi phải chờ cơ hội thuận tiện và hỏi xin vào thời điểm thích hợp nhất.
Trò chơi đá cầu dành cho các cô gái và những người phụ nữ trẻ. Một mẩu gỗ có lỗ được làm ở cạnh trên, và nhồi lông vào trong. Quả cầu lông được giữ trong không trung bằng cách sử dụng đôi chân. Các cô gái sẽ nâng váy lên vừa đủ cao để có thể đá chân dễ dàng và chỉ được dùng chân, nếu chạm tay là bị loại. Một cô gái nhanh nhẹn có thể giữ quả cầu trong không trung đến mười phút.
Nhưng ở Tây Tạng nhất là ở vùng ngoại ô thủ đô Lhassa, trò chơi thịnh hành nhất là môn thả diều, mà người ta có thể gọi là môn thể dục của dân tộc. Chúng tôi chỉ có thể chơi diều vào những mùa nhất định. Nhiều năm về trước, người ta nhận thấy rằng thả diều trên những vùng núi cao đã gây nên những trận mưa lũ, khi đó người ta nghĩ rằng có lẽ các vị thần mưa đã nổi giận, nên dân chúng chỉ được phép chơi diều vào mùa thu, tức là mùa tạnh ráo ở Tây Tạng. Có những ngày nhất định, người ta giữ im lặng không kêu to ở các miền núi, vì tiếng vang của họ gây nên một sự chuyển động quá mau của những đám mây mù ẩm thấp từ Ấn Độ bay qua, do đó mà có thể dẫn đến những trận mưa lũ bất ngờ.
Ngày đầu mùa thu, một con diều đầu tiên được phóng lên từ nóc điện Potala. Trong vài phút, những con diều khác đủ mọi hình thức, lớn nhỏ đủ cỡ và đủ các màu sắc, liền xuất hiện trên nền trời Lhassa, trên đó chúng bay lượn nhảy nhót theo chiều gió thổi mạnh.
Tôi rất say mê cuộc chơi này và luôn luôn sắp đặt cách nào đó để con diều của mình là một trong những con bay lên đầu tiên. Mọi đứa trẻ con đều tự tay chế tạo con diều của mình, thường là với một cái sườn bằng tre được bọc phía ngoài bằng một thứ hàng tơ rất đẹp. Chúng tôi làm diều bằng những vật liệu hảo hạng, vì danh dự của gia đình cũng có liên hệ trong cuộc chơi này. Sau khi cái sườn bằng gỗ như cái hộp được chế tạo xong, chúng tôi gắn vào đó đầu, hai cánh và đuôi một con rồng có hình dáng dữ tợn.
Cuộc chiến đấu bằng diều diễn ra một cách vô cùng sôi nổi, khi ấy, chúng tôi cố gắng hạ những con diều của địch thủ. Để thực hiện điều đó, chúng tôi gắn những mảnh chai trên diều của mình và ngâm sợi dây diều trong một thứ keo trộn với bột thủy tinh nghiền nát; sau đó, chúng tôi chỉ cần phóng diều lên để cắt đứt sợi dây của các địch thủ và bắt lấy con diều của họ.
Đôi khi, lúc trời tối chúng tôi lén thả diều lên trời sau khi đã cột chặt những cái đèn nhỏ thắp bằng bơ vào bên trong cái sườn gỗ, chỗ đầu rồng. Đôi mắt rồng liền phóng ra những tia lửa đỏ và mình rồng lóng lánh muôn màu nghìn sắc, nổi bật trên không trung giữa nền trời khuya u ám. Chúng tôi đặc biệt thích cuộc chơi này khi có những đoàn thương buôn lớn chở hàng trên lưng những con Yak từ vùng Lhodzong đến thủ đô Lhassa. Với sự ngây thơ của con trẻ, chúng tôi nghĩ rằng người thương buôn "Dốt nát" ở các vùng quê hẻo lánh chắc chưa bao giờ nghe nói đến những phát minh diễm ảo tân kỳ như những con diều của chúng tôi. Vậy nên chúng tôi quyết định gây cho họ một phen sợ sệt kinh hoàng nên thân.
Một trong những phát minh khác nữa của chúng tôi là gắn trong mình con diều ba loại vỏ ốc khác nhau, và đặt cách nào đó cho gió thổi vào làm các vỏ ốc phát ra những tiếng hú kinh hồn. Khi thả diều lên trời, con rồng lửa uốn khúc muôn màu phát ra những tiếng rú rùng rợn trong đêm khuya, và chúng tôi hy vọng rằng nó sẽ gây cho các tay thương buôn đến từ các tỉnh lẻ xa xôi sự sợ sệt mà họ sẽ nhớ suốt đời không quên.
---------------------------------ooOoo---------------------------------
Tôi noi theo con đường đưa đến tu viện Chakpori, tu viện này vừa là một đạo viện vừa là một trường y khoa có tiếng là kỹ luật rất cao. Tôi đi bộ vượt qua mấy cây số đường trường dưới ánh sáng bình minh mỗi lúc càng tỏ rạng. Đến ngoài cổng lớn đưa vào sân mặt tiền của tu viện, tôi gặp hai thiếu nhi khác cũng đến xin được thu nhận. Chúng tôi nhìn nhau một cách dè dặt, nhưng không ai nói với ai một lời nào. Chúng tôi định bụng là hãy tỏ ra lịch sự với nhau nếu chúng tôi sẽ cùng thụ huấn trong một tu viện.
Chúng tôi gõ cửa một cách e dè cùng một lúc nhưng không ai trả lời. Một bạn đồng cảnh ngộ của tôi lúc ấy cúi xuống lượm một viên đá lớn đập vào cửa cổng để làm cho người ta chú ý. Một vị sư sãi xuất hiện, tay cầm một cây gậy, lúc đó chúng tôi sợ đến nổi tưởng chừng như cây gậy to lớn bội phần. Vị sư sãi cất tiếng hỏi:
- Chúng bây muốn gì, lũ tiểu quỷ? Chúng bây tưởng rằng tao không có việc gì làm khác hơn là phải mở cửa cho những lũ tiểu yêu như tụi bây sao?
Tôi đáp:
- Chúng tôi muốn trở nên tu sĩ.
- A! Tu sĩ? Tụi bây giống như lũ khỉ thì đúng hơn. Hãy đứng đợi tại đây, vị Chưởng Môn đoàn Sơ Cơ tiếp chúng bây khi nào Người có thời giờ.
Cánh cửa lớn đóng sầm lại rất mạnh, và một bạn đồng đội với tôi vô ý đứng gần bên suýt bị té ngã. Chúng tôi ngồi xuống đất vì đứng lâu đã mỏi chân. Lác đác có vài người đã vào tu viện. Một mùi đồ ăn xào nấu ngon lành từ nhà bếp bay lọt ra ngoài cửa sổ và phảng phất trong không khí, làm cho tôi cảm thấy như chịu một cực hình vì cơn đói bụng mỗi lúc càng tăng. Ôi! Thức ăn ngon lành ấy tuy ở gần kề một bên, nhưng đồng thời cũng lại xa cách với chúng tôi biết bao!
Sau cùng cánh cửa lớn lại mở rộng, và một vị sư sãi dáng cao và gầy ốm xuất hiện. Ông ta quát to:
- Lũ tiểu yêu, chúng bây muốn gì đây, hử?
- Chúng tôi muốn trở thành tu sĩ.
Ông ta nói lớn:
- Lạy trời, đời nay sao có chuyện lạ vậy?
Người tu sĩ ra hiệu cho chúng tôi bước vào bên trong bức tường rào của tu viện. Người ấy hỏi chúng tôi là những thứ gì, chúng tôi là ai, và thậm chí tại sao chúng tôi sinh ra đời để làm gì!
Thật không khó gì mà hiểu rằng chúng tôi không gây ra nơi người ấy một ấn tượng tốt lành nào cả!
Ông ta nói với thiếu nhi đầu tiên, người này tự xưng là con của một người mục đồng:
- Vô đây mau lên. Nếu ngươi vượt qua được những cuộc thử thách, thì ngươi sẽ được thu nhận.
Kế đó ông ta nói với người thiếu nhi kia:
- Còn thằng kia? ... sao, mi nói gì? ... cha mi làm nghề đồ tể? A! đó là người hàng thịt, một người phạm giới sát sinh và không tuân theo giới luật của Phật. Vậy mà mi còn dám tới đây? Cút đi mau kẻo ta lại cho mi ăn gậy bây giờ!
Nói xong ông ta nhảy tới chụp lấy thằng nhỏ, thằng này thấy thế nguy bèn quên cả sự mệt nhọc và cố gắng thu thập tinh thần. Nhanh như chớp, nó quay đầu trở lại, phóng ra ngoài đường lộ và chạy một mạch vắt giò lên cổ, làm cho đường cái dậy bụi lên từng đợt nhỏ.
Chỉ còn lại một mình tôi. Người tu sĩ quay lại nhìn tôi với cặp mắt hung tợn và tôi cảm thấy sợ sệt đến nỗi chút nữa tôi đã ngất xỉu ngay tại chổ! Ông ta bèn quơ gậy một cách hâm dọa và quát lớn:
- Còn thằng nhỏ này! Mi là ai? ... A ha! Con một vị hoàng thân quốc thích mà muốn trở thành tu sĩ. Nhưng trước hết mi phải chứng minh giá trị của mi tới đâu, cùng những gì mi có trong bụng. Đây không phải là chỗ của những con nhà quý tộc ương hèn, nhu nhược. Mi hãy lui lại bốn chục bước và ngồi yên tại chỗ theo tư thế ngồi thiền cho đến khi có lệnh mới. Cấm không được cựa quậy chí đến một sợi lông nheo!
Nói xong, ông ta lui gót đi ngay. Tôi lặng lẽ thu nhặt khăn gói và lùi lại bốn chục bước, ngồi xuống trong tư thế kiết già theo như lời dặn. Tôi ngồi yên như thế suốt ngày không cựa quậy. Những cơn gió lốc hất vào mình tôi những bụi bậm của đường xá, lần lần cát bụi đóng vào mình tôi, chất từng đống nhỏ trên hai bàn tay lật ngửa, trên vai và len lỏi vào tóc tai của tôi.
Khi ánh sáng mặt trời mỗi lúc càng yếu dần, tôi càng cảm thấy đói khát hơn, một cơn khát nước như cực hình, nó làm khô cuống họng tôi. Từ lúc sáng sớm đến giờ tôi chưa ăn uống gì cả. Những sư sãi trong tu viện rất đông, họ đi qua lại không ngớt, nhưng không ai để ý đến tôi.Vài con chó hoang thỉnh thoảng ngừng lại, đưa mỏ vào mình tôi để đánh hơi một cách tò mò, rồi lại bỏ đi. Một đám trẻ nhỏ đi ngang qua. Một đứa trong bọn chúng không có việc gì làm, chắc hẳn là ngứa tay, bèn ném vào mình tôi một viên sỏi trúng nơi màn tang, máu chảy ròng ròng. Nhưng tôi vẫn không cựa quậy. Tôi đã quá sợ hãi. Nếu tôi thất bại trong cơn thử thách này, cha tôi sẽ không để cho tôi trở về nhà và tôi sẽ không biết phải đi đâu. Tôi không còn có thể làm gì hơn là ngồi yên, âm thầm chịu khổ sở với các bắp thịt đau đớn như dần và những khớp xương tê cứng.
Mặt trời đã khuất dạng sau những dãy núi, và đêm tối đã đến. Các tinh tú chói lập lòe trên nền trời u ám. Hàng nghìn những ngọn đèn nhỏ thắp bằng bơ chiếu sáng ở các cửa sổ của những tu viện. Một ngọn gió lạnh như băng đã dậy lên. Tôi nghe tiếng gió rít lạnh lùng và tiếng lá xào xạc trên những cành liễu cùng với những tiếng động làm thành bản nhạc lạ lùng bí hiểm của ban đêm.
Dù việc gì đã xảy ra, tôi vẫn ngồi yên bất động, vì hai lý do chính:
Một là vì tôi quá sợ hãi, và hai là tứ chi của tôi đã quá tê cứng để có thể cử động được. Khi đó, tôi nghe có tiếng dép đi trên đất cát. Tôi nhận ra đó là những bước chân của một ông lão đang lần mò tìm đường đi trong bóng tối. Một bóng đen xuất hiện trước mặt tôi, đó là một vị sư sãi già đã còng lưng và mệt mỏi sau bao nhiêu đêm khổ hạnh. Những bàn tay của người đã run, điều này không làm cho thản nhiên khi tôi thấy ông ta làm đổ nghiên chén trà cầm nơi tay. Trong bàn tay kia, ông ta cầm một bát Tsampa, và đưa cho tôi luôn cả hai thứ. Tôi vẫn ngồi yên không cử động. Ông ta nói:
- Con hỡi, hãy cầm lấy, vì con có quyền cử động trong những giờ ban đêm.
Tôi bèn uống chén trà, và sớt món Tsampa vào cái chén riêng của tôi. Ông lão lại nói:
Bây giờ con hãy ngủ đi nhưng khi trời hừng sáng, con hãy ngồi lại trong tư thế cũ, vì đây là một cuộc thử thách chứ không phải là một hình phạt vô ích, những kẻ nào vượt qua cuộc thử thách này mới có thể được thu nhận vào dòng tu của chúng ta.
Nói xong, ông lão cầm lấy những chén bát và đi thẳng. Tôi bèn đứng dậy, vươn vai, duỗi thẳng tay chân, rồi nằm xuống nghỉ lưng; tôi vừa nằm nghiêng một bên vừa ăn chén stampa. Quả thật là tôi đã quá kiệt sức. Sau khi ăn no, tôi kê cái gói áo để gối đầu và nằm luôn dưới đất. Bảy năm của cuộc đời tôi trên thế gian này thật là không được sung sướng chút nào. Cha tôi luôn tỏ ra nghiêm khắc trong mọi việc, nghiêm khắc một cách kinh khủng, tuy vậy đây là lần đầu tiên mà tôi ngủ xa nhà và suốt ngày hôm đó tôi không hề sửa đổi tư thế, hoàn toàn ngồi yên bất động, xác thể bị dày vò vì cơn đói khát. Tôi không biết ngày mai sẽ đưa đến cho tôi số phận như thế nào, và người ta sẽ bắt tôi phải chịu những điều gì nữa. Nhưng bây giờ, tôi phải ngủ, ngủ dưới màn trời lạnh lẽo, cô đơn, một mình với sự sợ hãi bóng tối, một mình với sự sợ hãi những ngày sắp tới.
Dường như tôi chỉ nhắm mắt được không bao lâu thì đã thức giấc vì tiếng kèn thổi vang tai. Tôi vừa mở mắt đã thấy ánh bình minh phản chiếu trên nền trời đằng sau những dãy núi. Tôi hối hả thức dậy và liền giữ lấy tư thế ngồi thiền. Trước mặt tôi, cả tu viện điều đã dần dần thức giấc. Lúc đầu nó giống như một thành phố bị đắm chìm trong giấc ngủ. Kế đó, tiếng động nhẹ ban đầu mỗi lúc càng tăng dần dần và tu viện trở thành ồn ào náo nhiệt như một cái tổ ong vò vẽ trong một ngày mùa hạ. Khi mặt trời ló dạng, những toán sư sãi đầu cạo sạch bóng đi qua lại trong những cửa tu viện.
Mặt trời càng lên cao, tôi càng cảm thấy tê buốt các khớp xương, nhưng tôi không dám cử động; tôi không dám ngủ thêm, vì chỉ một cử động nhẹ là tôi đã thất bại và sau đó tôi biết đi đâu? Cha tôi đã nói rõ ràng: Nếu tu viện không bằng lòng thu nhận tôi, thì cha tôi cũng sẽ không nhận tôi trở về. Từng nhóm nhỏ các sư sãi bước ra khỏi các gian nhà của tu viện để làm công việc hàng ngày. Vài thiếu niên đi rảo ngoài sân; đôi khi chúng nó lấy chân đá một cái, hất văng cát bụi bay mù mịt và những viên sỏi nhỏ về phía tôi ngồi, hoặc chúng đua nhau thốt ra những lời thô bỉ, tục tằn, cố ý nhắm vào tôi làm mục tiêu. Thấy tôi không đáp lại, chúng chán nản bỏ đi tìm những nạn nhân khác dễ chọc ghẹo hơn. Một ngày nữa lại qua mau; lần lần mặt trời lại ngả về tây và những ngọn đèn bơ của tu viện lại được thắp sáng. Trong giây lát, tôi đã ngồi dưới ánh sao, vì đó là ngày thượng tuần, trăng lên hơi muộn.
Thình lình, tôi cảm thấy lo sợ; hay là người ta đã quên tôi rồi? Hay đây là một cuộc thử thách, trong khi đó tôi phải chịu nhịn đói? Tôi không hề cử động suốt ngày hôm đó, một ngày kéo dài vô tận, và sự đó khát đã làm cho tôi mệt nhừ. Thình lình, một tia hy vọng nhen nhúm trong lòng tôi và làm tôi muốn nhảy dựng lên. Tôi nghe có tiếng chân đi và một bóng đen tiến về phía tôi. Nhưng than ôi, đó là một con chó ngao lớn và đen đang kéo lê một vật gì. Không một mảy may chú ý đến tôi, nó vẫn tiếp tục đi thẳng, cũng không chút xót thương cho cái tình trạng khó khăn của tôi. Niềm hy vọng của tôi bèn sụp đổ. Tôi cảm thấy muốn khóc để chóng lại sự yếu hèn đó, tôi bèn tự nhắc nhở lấy mình rằng chỉ có đàn bà con gái mới dại dột mà sử sự như thế.
Sau cùng, tôi nghe tiếng bước chân của vị sư già. Lần này, ông lão nhìn tôi với đôi mắt dịu hiền và nói:
- Con hỡi, đây là những đồ ăn thức uống cho con, nhưng sự thử thách chưa phải là hết. Còn ngày mai nữa. Con hãy nhớ đừng làm một cử động nào, vì có nhiều người đã thất bại vào giờ phút chót.
Nói xong, ông lão từ biệt đi ngay. Trong khi vị sư già nói chuyện, tôi uống chén trà bơ và một lần nữa, sớt stampa vào cái bát riêng của tôi. Một lần nữa, tôi lại nằm dài dưới đất, thật ra cũng không sung sướng gì hơn đêm trước. Vừa nằm tôi vừa suy nghỉ về cách đối xử bất công này, tôi không còn muốn làm tu sĩ nữa. Người ta không để cho tôi có quyền định đoạt số phận của tôi, chẳng khác nào như tôi là một con lừa bị bắt buộc phải trèo qua một truyền núi, thế thôi. Tôi ngủ thiếp đi trên cái ý nghĩ đó.
Ngày hôm sau, cuộc thử thách bước qua ngày thứ ba. Khi tôi ngồi dậy theo tư thế tọa thuyền, tôi cảm thấy yếu sức hơn mọi ngày và đầu óc tôi choáng váng. Tôi thấy tu viện dường như xoay tít trong một khối xa mù gồm những tòa dinh óc, những màu mè sặc sỡ, những đốm đỏ với những núi non và những sư sãi quay cuồng lẫn lộn với nhau một cách vô cùng hỗn độn. Tôi phải làm một cố gắng phi thường để vượt qua được cơn chóng mặt đó. Tôi cảm thấy kinh hoàng với ý nghỉ rằng tôi có thể thất bại sau khi đã chịu tất cả những sự đau khổ trong những ngày qua. Tôi có cảm giác rằng những tảng đá mà tôi ngồi ở trên, lần lần đã trở nên bén nhọn cũng như dao cắt, nó làm cho tôi đau nhức ở những bộ phận nhạy cảm nhất trong mình tôi. 
Ông mặt trời dường như đứng yên một chỗ; ngày ấy kéo dài như vộ tận. Nhưng sau cùng, ánh nắng bắt đầu dịu bớt, vầng hồng đã xuống thấp và ngọn gió chiều đã thổi phất phơ một sợi lông chim do một con chim én bay qua đã bỏ rớt lại. Lại một lần nữa, những ánh đèn bơ đã lần lượt nối tiếp nhau thấp thoáng qua khung cửa sổ. Tôi thầm nghĩ.
- "Tôi mong sao được chết trong đêm nay, tôi không còn chịu đựng được nữa."
Ngay lúc ấy, cái bóng đen cao lớn của vị chưởng môn Đoàn Sơ Cơ xuất hiện nơi khung cửa. Ông ta nói:
- Con hỡi, hãy lại đây!
Tôi thử đứng dậy, nhưng hai chân tôi đã chai cứng đến nỗi tôi phải nằm dài trên mặt đất. Người lại nói:
- Nếu con muốn nằm nghỉ, con có thể ở lại đây một đêm nữa. Ta không thể chờ đợi lâu hơn.
Tôi bèn hối hả thu lượm khăn gói và tiến lại gần vị Chưởng Môn với bước đi khập khểnh. Ông ta nói:
- Vào đây. Con hãy dự cuộc lễ tối và sáng mai con hãy đến gặp ta.
Bên trong tu viện, không khí rất ấm áp và mùi hương trầm làm cho tôi cảm thấy khỏe mạnh. Vì quá đói, giác quan nhạy cảm của tôi cho tôi biết rằng cách đó không xa chắc có thức ăn no lòng, tôi bèn đi theo một nhóm sư sãi hướng về phía tay mặt. À, có đồ ăn đây rồi: Tsampa và trà bơ! Tôi ráng chen lên hàng đầu dường như tôi đã quen làm như vậy suốt đời tôi!
Các sư sãi toan nắm chớp tôi khi tôi bò bốn cẳn luồng qua chân họ để đi tới trước nhưng vô ích; tôi đang muốn ăn, và không có gì có thể ngăn cản tôi được nữa. Sau khi đã ăn uống no lòng, tôi theo chân các sư sãi vào trong nội điện để dự cuộc lễ. Tôi đã quá mệt mỏi để có thể hiểu biết những gì xảy ra, nhưng không ai để ý đến tôi. Sau cuộc lễ, khi các sư sãi sắp hàng một đi ra ngoài, tôi mới lẻn ra phía sau một cây cột lớn, nằm dài xuống mặt sàn bằng đá, gối đầu trên cái bọc vải đựng quần áo của tôi và ngủ một giấc ngon lành. 
---------------------------------ooOoo---------------------------------
Tại tu viện Chakpori, một ngày của chúng tôi bắt đầu từ lúc nửa đêm. Khi tiếng kèn báo đầu canh ba vang dội âm thanh đến những hành lang u tối, chúng tôi còn đang ngái ngủ đã phải thức dậy xếp lại nệm chiếu và dò dẫm tìm cái áo tràng trong bóng tối. Mặc áo xong, chúng tôi vừa bước đi vừa dồn mọi vật dụng vào áo tràng. 
Chúng tôi bước xuống thang lầu và nện gót giày trên cầu thang với những tiếng động ồn ào, vì vào giờ này chúng tôi thường bực bội không vui. Trong phần giáo lý của chúng tôi có câu: “Thà nghỉ ngơi với một tâm hồn an tĩnh còn hơn là ngồi tham thiền tụng niệm mà ôm cơn tức giận trong lòng.” Tôi thường có một ý nghĩ bất kính “Nếu vậy, tại sao người ta không để cho chúng tôi nghỉ ngơi trong sự yên tĩnh?” 
Sự thức giấc vào lúc nửa đêm làm cho tôi tức giận! Nhưng không ai cho tôi một lời giải đáp thỏa đáng, thành thử tôi vẫn phải đi cùng với mọi người vào điện thờ để dự cuộc lễ cầu nguyện giữa khuya. 
Tại đây, vô số những ngọn đèn thắp bằng bơ chiếu ánh sáng lung linh xuyên qua những luồng khói hương nghi ngút bay lượn trong không khí. Dưới ánh sáng lập lòe này, giữa những bóng người qua lại, những pho tượng khổng lồ của các vị thần dường như cũng cử động và nghiêng mình đáp lại tiếng hát thánh ca của các nhà sư. 
Hàng trăm nhà sư và các chú tiểu đều ngồi xếp bằng trên những tấm nệm xếp thành những hàng dài trong điện thờ. Họ ngồi đối diện với một hàng và quay lưng vào một hàng khác. Họ cất tiếng hát những bản thánh ca du dương, dùng những tiết điệu đặc biệt, vì người Đông phương đã từng hiểu biết về những công năng thần bí của âm thanh. Cũng giống như một âm thanh được phát ra đúng cách có thể gây chấn động làm vỡ một cái ly, một bản nhạc dùng nhiều âm thanh hợp lại theo một tiết điệu nhất định cũng có những công năng siêu hình, thần bí. 
Trong buổi lễ cũng có đọc kinh Kangyur. Thật là một cảnh tượng huy hoàng khi hàng trăm nhà sư mặc áo tràng màu đỏ sậm, với mảnh lụa yểm tâm màu vàng che trước ngực, vừa nghiêng mình vừa hòa tấu những bài thánh ca, kèm theo tiếng ngân của những cái chuông nhỏ và tiếng trống. Những đám khói hương trầm và đèn nhang nghi ngút luồn qua chân các pho tượng thần khổng lồ, người ta có cảm giác rằng giữa cái ánh sáng huyền ảo đó, những pho tượng ấy cũng nhìn chúng tôi như để chứng kiến cuộc lễ uy nghiêm. 
Buổi lễ kéo dài gần một giờ, sau đó chúng tôi trở về phòng để ngủ lại cho đến bốn giờ sáng. Một cuộc lễ sớm bắt đầu vào lúc bốn giờ một khắc. Đến năm giờ, chúng tôi ăn điểm tâm với tsampa và trà pha bơ. Dẫu cho trong khi ăn, chúng tôi cũng còn phải lắng nghe giọng nói độc âm chán phèo của vị sư xướng ngôn. Trong khi đó, vị sư giám thị ngồi kế bên dò xét chúng tôi với cặp mắt cú vọ. 
Vào lúc này, người ta đưa ra cho chúng tôi tất cả mọi thông tri và huấn lệnh. Thí dụ như trong trường hợp có việc cần phải đi ra thành phố Lhasa, thì trong giờ ăn điểm tâm người ta nêu tên những nhà sư có phận sự nhận lãnh công việc đó. Những vị này được phép rời khỏi tu viện trong một khoảng thời gian nhất định và được phép vắng mặt trong một vài buổi lễ trong ngày. 
Đến sáu giờ, chúng tôi vào lớp học, sẵn sàng học buổi học đầu tiên. Lời răn thứ nhì của Phật giáo Tây Tạng dạy rằng: “Hãy làm tròn bổn phận tôn giáo và học hỏi Thánh giáo.” Trong sự ngây thơ của tuổi lên bảy, tôi không hiểu tại sao người ta phải tuân theo lời răn này, trong khi lời răn thứ năm dạy rằng: “Hãy kính trọng những bậc trưởng thượng và những người thuộc dòng quý tộc” lại không được tuyệt đối tuân theo? 
Thật vậy, theo kinh nghiệm tôi thấy rằng có một cái gì đáng hổ thẹn khi sinh trưởng trong một nhà quý tộc. Tôi thật sự đã là nạn nhân của điều đó. Hồi đó, tôi không hiểu rằng giai cấp của một người không phải là điều quan trọng mà chỉ có đức hạnh mới là đáng kể
Đến chín giờ, chúng tôi ngưng học trong bốn mươi phút để dự một cuộc lễ khác. Sự gián đoạn này đôi khi cũng dễ chịu, nhưng chúng tôi phải trở về lớp học vào mười giờ kém mười lăm phút. Khi đó, một môn học khác lại bắt đầu và sự học kéo dài cho đến một giờ trưa. Chúng tôi vẫn chưa được phép ăn uống gì và phải dự một cuộc lễ trưa độ nửa giờ trước khi dùng bữa trưa gồm có tsampa và trà pha bơ. 
Kế đó, là một giờ làm công việc nhà để giúp chúng tôi vận động cơ thể và để dạy chúng tôi đức tính khiêm tốn. Những công việc dơ bẩn nhất và khó chịu nhất được giao phó cho tôi, dường như nhiều lần hơn là theo sự luân phiên. Đến ba giờ chiều, chúng tôi tụ họp lại để nghỉ ngơi một tiếng đồng hồ. Trong giờ đó, sự nghỉ ngơi là bắt buộc, cấm không được nói chuyện hay cử động; chúng tôi phải giữ im lặng hoàn toàn. Chúng tôi không thích sự sắp đặt đó chút nào, vì một giờ là quá ngắn cho giấc ngủ trưa và quá dài để ngồi yên mà không làm gì! 
Sau giờ nghỉ trưa đó, đúng bốn giờ, chúng tôi trở lại lớp học. Đến đây mới bắt đầu giai đoạn gian lao nhất trong ngày, kéo dài suốt năm tiếng đồng hồ, không một phút nào ngơi nghỉ. Trong năm tiếng đồng hồ đó, chúng tôi không được rời khỏi lớp học vì bất cứ một lý do gì. Nếu trái lệnh, chúng tôi sẽ bị trừng phạt rất nặng nề. Các vị thầy dạy sử dụng những cây gậy to lớn một cách tự do và có vài vị tỏ ra rất sốt sắng trong việc trừng phạt kẻ vi phạm. Chỉ những học trò nào không thể chịu đựng được nữa, hoặc những kẻ thật ngu xuẩn mới dám đi ra ngoài, vì khi họ trở về lớp, sự trừng phạt là điều không thể tránh khỏi. 
Đến chín giờ tối, chúng tôi mới được giải thoát để dùng bữa ăn cuối cùng trong ngày, cũng chỉ gồm có bấy nhiêu món là trà bơ và tsampa. Đôi khi, nhưng rất hiếm, chúng tôi được ăn rau, thường là những khoanh củ cải trắng hay đậu tươi. Những thứ rau đậu này chỉ ăn sống, nhưng cũng ăn được đối với những thiếu sinh bụng đói. 
Có một lần, năm tôi lên tám tuổi, người ta cho chúng tôi ăn búp măng tây trộn giấm. Tôi rất thích ăn măng tây, vì tôi thường được ăn món ấy hồi còn ở nhà. Vì ăn còn thèm, tôi đã dại dột đề nghị với một bạn trẻ ngồi gần bên đổi cái áo tràng thứ hai của tôi để lấy phần ăn của nó. Vị sư giám thị bắt gặp quả tang chuyện này, bèn gọi tôi ra đứng giữa phòng ăn để công khai thú tội trước mặt mọi người. Để trừng phạt tội tham ăn, tôi phải chịu nhịn đói nhịn khát trong hai mươi bốn giờ. Còn cái áo tràng của tôi thì bị tịch thu, viện lẽ rằng nó không có ích lợi gì cho tôi, vì tôi đã muốn đổi nó lấy một vật không cần thiết lắm! 
Đến chín giờ rưỡi, chúng tôi trở về phòng. Không ai là người không về mau để ngủ! Lúc đầu, tôi nghĩ rằng những giờ học dài quá mức đó có thể làm hại sức khỏe tôi, và có lẽ tôi sẽ lăn ra chết bất cứ lúc nào hoặc tôi sẽ ngủ luôn không bao giờ thức dậy nữa. Cùng với những trẻ “ma mới” khác, chúng tôi thường rút lui vào một góc kín đáo để ngủ gà ngủ gật. Nhưng dần dần tôi đã làm quen với thời khoá biểu khắt khe đó, và sau cùng thì những chuỗi ngày dài vô tận đó không còn làm cho tôi khó chịu nữa. 
---------------------------------ooOoo---------------------------------
Một đứa trẻ thường được gửi vào tu viện rồi trở thành nhà sư mà không cần được hỏi ý kiến. Đôi khi, đó có thể là một người trưởng thành đã chán công việc đi chăn cừu và muốn có một mái nhà ấm cúng để che sương tránh tuyết khi tiết trời lạnh lẽo xuống đến bốn mươi độ âm. Khi đó, anh ta đến xin làm nhà sư trong tu viện, không phải vì lý tưởng tôn giáo, mà vì muốn tự đảm bảo ít nhiều tiện nghi vật chất. Các tu viện dùng những nhà sư loại đó như những người công nhân để làm những công việc xây cất, cày bừa hay quét dọn. Ở những xứ khác thì những người như thế phải được gọi là nô dịch, người làm thuê hay một danh xưng tương tự nào đó. Phần nhiều họ đã sống một cuộc đời rất khổ nhọc, vì sống ở những vùng cao nguyên từ ba ngàn đến bảy ngàn thước cao hơn mặt biển không phải là một cuộc sống dễ chịu. 
Vì thế, danh xưng “nhà sư” đối với người Tây Tạng chỉ có nghĩa là một người sống trong tu viện, không khác gì hơn mọi người thường. Người Tây Tạng dùng danh từ trappa để chỉ những vị tu sĩ thực sự là người tu hành. 
Những vị Lạt-ma là những bậc cao tăng, thuộc một đẳng cấp cao. Đó là những bậc đạo sư, hay tôn sư. Thí dụ như vị Lạt-ma Đại đức Mingyar sẽ là vị tôn sư của tôi, và tôi sẽ là đệ tử của người. 
Kế đó, ở đẳng cấp cao hơn nữa là những vị Sư trưởng. Không phải tất cả những vị này đều đảm trách trông coi một tu viện. Nhiều vị nắm giữ những chức vụ cao trong Chính phủ, hoặc đi hoằng hóa từ tu viện này đến tu viện khác. Đôi khi một vị Lạt-ma có thể có đẳng cấp cao hơn một vị Sư trưởng, tùy theo những hoạt động của người. 
Những người được xem là những vị Hóa thân (Như người ta đã chứng minh rằng đó là trường hợp của tôi.) có thể được chỉ định làm Sư trưởng vào năm mười bốn tuổi, sau khi đã vượt qua một cuộc thi rất khó khăn. Những vị này thường là nghiêm khắc, nhưng không hung dữ và không bao giờ bất công. 
Một thí dụ khác về các nhà sư tầm thường là trường hợp các nhà sư bảo vệ. Nhiệm vụ duy nhất của họ là duy trì trật tự. Họ không có phận sự gì trong việc tế tự hay lễ bái ở các đền chùa. Họ chỉ có mặt để giữ cho mọi việc diễn ra theo đúng các qui tắc, luật lệ. Họ thường rất hung hăng, cũng như phần nhiều các nhà sư lao dịch như đã nói ở trên, nhưng không phải vì thế mà họ làm giảm uy tín của các tu viện. Người ta không thể lên án một vị giám mục vì ông ta có một tên làm vườn thô lỗ! Cũng như người ta không thể mong đợi người làm vườn ấy sẽ trở nên một vị thánh chỉ vì ông ta đã làm tôi tớ cho một vị giám mục! 
---------------------------------ooOoo---------------------------------
Tại đây, người ta xay giã mạch nha đã sấy xong. Cối xay là một cối đá hình ống loa lật ngược, đường kính độ một thước sáu tấc. Lòng cối xay có chạm khắc những đường lồi lõm để giữ lúa. Một tảng đá vĩ đại cũng hình ống loa, nhưng đặc ruột, được đặt vào lòng cối để nghiền nát lúa. Tảng đá này được nâng bằng một cái đòn gỗ mà thời gian đã làm cho trơn bóng, ở hai đầu cái đòn này có gắn chặt những đòn tay nhỏ hơn giống như những cây căm của một bánh xe không có vành. 
Mạch nha sấy được đổ vào cối đá, rồi các nhà sư và những trẻ thiếu nhi mới nắm lấy những cây căm bánh xe để vận chuyển khối tảng đá nặng đến hàng mấy tấn. Khi tảng đá đã xoay vòng thì công việc không còn nặng nhọc lắm và chúng tôi cùng cất tiếng hát hợp xướng. Ít nhất, tại đây tôi có thể hát mà không bị bắt tại trận! Nhưng làm chuyển động tảng đá khổng lồ này là cả một công việc khó nhọc. Mọi người đều phải cùng nhau gắng sức. Kế đó, phải lưu ý giữ sao cho nó chuyển động luôn luôn không lúc nào ngừng. 
Mạch nha sấy được tiếp tục đổ thêm vào cối, và phần đã xay xong thoát ra ngoài ở dưới đáy cối. Chính thứ mạch nha xay này, được trải một lần nữa lên những tảng đá nóng và sấy lại, là chất liệu căn bản để làm món tsampa. 
Mỗi người chúng tôi luôn đem theo bên mình một lượng tsampa, hay nói đúng hơn là bột mạch nha đã xay nát và sấy lại, đủ ăn trong một tuần. Đến bữa ăn, chúng tôi lấy ra một phần nhỏ đựng sẵn trong những cái bọc da và đổ vào chén riêng của mình. Sau khi đã cho thêm trà pha bơ, chúng tôi dùng ngón tay trộn đều và nhồi cho đến khi nó trở thành một thứ bánh, rồi mới ăn. 
Qua hôm sau, công tác làm bếp gồm việc nấu trà bơ. Ở một gian phòng khác của nhà bếp có đặt một cái chảo đun khổng lồ, dung tích đến 675 lít. Chảo này đã được lau chùi bằng cát và sạch bóng như mới. Từ sáng sớm, trong chảo đã được chứa nước đến phân nửa và nấu sôi lên sùng sục. Chúng tôi có phận sự đi lấy những bành trà đã phơi khô và đập ra thành từng mảnh vụn. Trà được ép cứng lại thành từng bành lớn hình vuông như viên gạch, mỗi bành nặng từ bảy đến tám kí lô, được chở từ Trung Hoa hay Ấn Độ đếnLhasa bằng đường bộ xuyên qua các truông núi. 
Những mảnh vụn trà vừa đập ra được ném vào chảo nước đang sôi. Một nhà sư thêm vào đó một tảng muối cục thật lớn, một nhà sư khác bỏ thêm vào đó một lượng muối bi-cạt (bicarbonate de soude). Khi tất cả đã sôi đều, người ta mới đổ thêm vào từng tảng bơ làm bằng sữa bò yak, và để lửa cháy trong lò suốt nhiều giờ. 
Trà trộn với bơ này có một giá trị dinh dưỡng rất cao, và khi dùng chung với món tsampasẽ cung cấp đầy đủ chất bổ dưỡng để người dân Tây Tạng sống được quanh năm. 
Công việc khó nhọc nhất là giữ cho lửa cháy trong lò. Thay vì dùng than củi, người ta dùng phân bò yak phơi khô làm nhiên liệu đốt. Loại phân bò này luôn được dự trữ quanh năm, số lượng dùng không bao giờ hết. Phân bò đốt cháy tỏa ra một luồng khói có mùi vị rất chát và nồng nặc. 
Chúng tôi buộc phải làm những công việc này không phải vì thiếu nhân công, mà là để xóa bỏ đến mức tối đa mọi sự phân biệt giai cấp. Chúng tôi nghĩ rằng con người chỉ có một kẻ thù, ấy là sự chia rẽ, cách biệt. Làm việc bên cạnh một người, nói chuyện cởi mở và tạo điều kiện thông cảm, thì chắc chắn người ấy sẽ không còn là một kẻ thù của ta nữa. 
Ở Tây Tạng, mỗi năm một lần, những vị quan lớn hay chức sắc có quyền thế phải từ bỏ quyền hành của mình trong một ngày, và khi đó bất cứ thuộc hạ nào của họ cũng có quyền nói lên những cảm nghĩ trong lòng. Nếu một vị Sư trưởng tỏ ra lạm quyền, hống hách, người ta sẽ nói lên một cách công khai điều đó, và nếu sự phiền trách là đúng thật, thì người khiếu nại sẽ không bị một sự trừng phạt nào.
Phương pháp đó tỏ ra rất có hiệu quả, nên sự lạm dụng quyền hành rất ít khi xảy ra. Nó đảm bảo một sự công bình xã hội, để cho những thuộc viên ở cấp dưới có cơ hội phát biểu những cảm nghĩ của họ đối với người có quyền thế. 
Chúng tôi phải làm việc nhiều trong lớp học, và ngồi xếp thành hàng dưới đất. Khi giảng bài và viết trên bảng đen, thì vị thầy dạy đứng trước mặt học trò. Nhưng khi chúng tôi làm bài thì ông ta đi rảo phía sau lưng chúng tôi, thành thử chúng tôi phải luôn làm việc cẩn thận, vì không thể biết thầy đang lưu ý đứa nào! 
Vị thầy dạy không lúc nào rời cây gậy, một cây gậy mập mạp như cây dùi cui, và ông ta không ngần ngại “sử dụng” trên bất cứ bộ phận nào trong thân thể chúng tôi như vai, đầu, lưng, không kể đến bộ phận “cổ điển”, vì ông ta không cần phân biệt chỗ nào, miễn là những cú gậy đó phải đánh thật đau! 
Chúng tôi học rất nhiều về môn toán pháp. Môn này là một yếu tố cần thiết để giải đoán khoa chiêm tinh. Thật vậy, trong khoa chiêm tinh Tây Tạng không có gì là ngẫu nhiên tình cờ. Mọi vấn đề đều được thiết lập trên những nguyên tắc khoa học. Tôi phải học nhiều về khoa chiêm tinh vì môn này là tối cần thiết trong việc hành nghề y khoa. Một y sĩ phải biết điều trị bệnh nhân tùy theo từng hạng người, và sự phân hạng này là do khoa chiêm tinh qui định. Điều trị theo nguyên tắc đó tốt hơn là kê đơn thuốc một cách mơ hồ chỉ bởi lý do rằng thuốc ấy đã chữa khỏi bệnh cho một người khác. 
Bên cạnh những bản đồ chiêm tinh rất lớn treo trên tường, còn có những bức tranh lớn vẽ hình các loại dược thảo. Những tranh vẽ này được thay đổi luôn luôn mỗi tuần và chúng tôi phải biết rõ tất cả mọi loại cây thuốc. 
Sau này, có những cuộc xuất hành được tổ chức để đi hái thuốc, nhưng chúng tôi chỉ được tham dự những cuộc ngao du đó khi đã có những kiến thức sâu rộng, để người ta có thể tin tưởng rằng chúng tôi sẽ không hái nhầm những loại cây cỏ độc. 
Những chuyến đi hái thuốc đem đến cho chúng tôi một dịp ngao du rất thoải mái dễ chịu để tạm quên cuộc đời phẳng lặng buồn chán trong tu viện. Có những chuyến đi kéo dài suốt ba tháng. Đó là những cuộc xuất hành lên vùng thượng du, một vùng bao bọc chung quanh bởi những dãy núi tuyết phủ quanh năm, với độ cao từ sáu đến tám ngàn thước so với mực nước biển. Nơi đó, những vùng băng tuyết xen lẫn với những thung lũng xanh tươi khí hậu ôn hòa nhờ có những suối nước nóng. 
Trong vùng này người ta có thể có một kinh nghiệm độc nhất trên đời: Chỉ cần đi một quãng đường chừng năm mươi thước đã có thể trải qua từ một khí hậu lạnh 40 độ âm đến một khí hậu nóng bốn mươi lăm độ trong bóng mát! Vùng này của xứ Tây Tạng không ai được biết, chỉ trừ một số rất ít các nhà sư.
Sự giáo huấn trong Đạo Phật của chúng tôi hết sức nghiêm khắc; mỗi buổi sáng chúng tôi phải đọc thuộc lòng các luật và các bước của con đường trung đạo. Những luật này là:
1.      Tin tưởng vào những người lãnh đạo tu viện và đất nước.
2.      Kính trọng lễ giáo và học tập chăm chỉ.
3.      Tôn kính cha mẹ.
4.      Kính trọng đạo đức.
5.      Tôn kính người cao tuổi và bề trên.
6.      Phụng sự Tổ quốc.
7.      Lương thiện và trung thực trong mọi việc.
8.      Quan tâm đến bạn bè và người thân.
9.      Sử dụng thực phẩm và tài sản vì mục đích tốt nhất.
10.  Theo gương người tốt.
11.  Tỏ lòng biết ơn và báo đáp lòng tốt.
12.  Công bằng trong mọi việc.
13.  Không ghen tị và đố kỵ.
14.  Không gây chuyện tai tiếng.
15.  Lời nói và hành động phải nhẹ nhàng, không gây hại người khác.
16.  Đón nhận đau khổ và tai hoạ một cách kiên nhẫn và vui vẻ.
Chúng tôi luôn được nhắc nhở rằng nếu tất cả mọi người tuân đều theo những luật này thì sẽ không bao giờ có xung đột hay bất hòa.
Tu viện của chúng tôi nổi tiếng vì kỷ luật khắt khe và một nền giáo dục chặt chẽ. Một số lớn nhà sư đã từ giã chúng tôi để đi đến các tu viện khác có một đời sống dễ chịu hơn. Chúng tôi xem họ như những kẻ thất bại, và những người có thể kiên trì ở lại là thuộc thành phần ưu tú. 
Tại nhiều tu viện khác không có buổi lễ khuya vì các nhà sư đi ngủ sớm và thức dậy lúc trời đã sáng rõ. Chúng tôi khinh thường họ như những kẻ lười nhác, thấp kém, vì tuy rằng chúng tôi gặp nhiều khó khăn với quy tắc quá khắt khe của tu viện, nhưng chúng tôi vẫn không bằng lòng cho quy tắc đó bị sửa đổi, nếu điều đó đưa tới hậu quả là hạ thấp chúng tôi xuống một trình độ hèn kém hơn. 
Kế đó là phải loại trừ những kẻ yếu ớt. Chỉ những người rất khỏe mạnh mới đủ sức trở về sau những chuyến xuất hành lên vùng thượng du lạnh như băng tuyết. Ngoại trừ những nhà sư ở tu viện Chakpori, không ai dám đi lên đó. Các vị đạo sư, vốn đầy sự minh triết, luôn quyết định loại bỏ những người không thể chịu đựng cuộc sống kham khổ trước khi họ có thể làm liên lụy đến kẻ khác. 
Trong năm học đầu tiên, chúng tôi hầu như không có lúc nào nghỉ ngơi, giải trí hay được vui chơi thỏa thích. Mỗi giây phút của chúng tôi đều dành cho sự học và làm việc. 
---------------------------------ooOoo---------------------------------
Chúng tôi áp dụng một phương pháp luyện trí nhớ đã được thực nghiệm qua nhiều thế kỷ. Chúng tôi ngồi trong một gian phòng có những tủ lớn chứa đựng hàng muôn nghìn hộc tủ. Mỗi hộc tủ đều có dán nhãn bên ngoài, có in chữ khá lớn để dễ đọc từ chỗ chúng tôi ngồi. Mỗi đề tài mà chúng tôi đã học tập được sắp xếp trong một hộc tủ thích hợp. Chúng tôi phải hình dung rõ ràng trong trí mỗi đề tài và vị trí nhất định của mỗi hộc tủ. Với công phu tập luyện, người ta có thể đi vào gian phòng bằng tư tưởng một cách rất dễ dàng, mở đúng các hộc tủ mình muốn và lấy ra tài liệu mình đang tìm kiếm cùng với những đề tài liên quan. 
Các vị thầy dạy đặc biệt nhấn mạnh cho chúng tôi hiểu sự cần thiết phải có một trí nhớ được tập luyện thuần thục. Họ tra vấn chúng tôi một cách ráo riết với mục đích duy nhất là thử thách trí nhớ. Những câu hỏi thường không có một sự mạch lạc hay liên hệ gì với nhau, để không một dòng tư tưởng liên tục nào có thể giúp chúng tôi trả lời được dễ dàng. Những câu hỏi đó thường liên quan đến những đoạn bí hiểm trong kinh điển, chen lẫn với những câu hỏi rời rạc về các loại dược thảo. Kẻ nào quên sẽ bị trừng phạt nặng nề vì không có trí nhớ là một lỗi lầm không thể dung thứ, phải bị trừng trị nghiêm khắc. 
Chúng tôi thường không có thời gian để suy nghĩ mà phải trả lời ngay tức khắc. Chẳng hạn như khi vị thầy hỏi học trò: 
– Con hãy nhắc lại hàng thứ năm, trang mười tám trong quyển thứ bảy của bộ kinhKangyur. Hãy mở hộc tủ... xem hàng chữ đó nói gì? 
Trừ phi người ta có thể trả lời ngay trong mười giây đồng hồ, bằng không thì nên giữ im lặng, vì sự trừng phạt còn khốc liệt hơn nếu trả lời sai, dẫu cho sự sai lầm nhỏ nhặt đến đâu. 
Dầu sao, đó cũng là một phương pháp tốt và rất hữu hiệu để luyện trí nhớ. Chúng tôi không thể có thường xuyên bên mình những sách vở tham khảo, vì “sách” của chúng tôi là những tờ giấy đóng lại trong những cái bìa gỗ, thường đo đến một thước chiều dài và bốn tấc chiều ngang, thật quá kềnh càng để mang theo. 
Về sau, tôi nhận thấy rằng có được một trí nhớ tốt quả là điều tối quan trọng. Trong năm đầu tiên, chúng tôi bị ngăn cấm không được rời khỏi tu viện. Những người vi phạm sẽ bị đóng cửa không cho vào khi trở về. Luật lệ này chỉ được áp dụng ở tu viện Chakpori là nơi mà kỷ luật quá gắt gao đến nỗi người ta sợ rằng nếu để cho chúng tôi ra ngoài thì chúng tôi sẽ không trở lại nữa! 
Riêng về phần tôi, tôi phải thừa nhận rằng có lẽ tôi cũng sẽ trốn biệt luôn không trở lại nếu có được một chỗ nào khác để dung thân! Tuy nhiên, sau một năm thì chúng tôi đã quen dần với đời sống ở tu viện. 
Trong năm đầu tiên, chúng tôi không được phép chơi các môn giải trí. Người ta buộc chúng tôi làm việc không ngừng, điều này giúp loại trừ những đứa trẻ có thể chất yếu đuối, không chịu nổi sự căng thẳng thần kinh tột độ. Sau những tháng học khó khăn đó, chúng tôi thấy mình hầu như đã quên mất cả sự chơi bời tiêu khiển. 
---------------------------------ooOoo---------------------------------
Khi tôi gần lên tám tuổi, Đại đức Mingyar, sư phụ tôi, cho tôi biết rằng, theo sự giải đoán của các nhà chiêm tinh thì sau ngày sinh nhật của tôi sẽ là ngày thuận lợi để tôi bắt đầu luyện thần nhãn. Tôi không lo ngại gì, vì tôi biết rằng sư phụ tôi sẽ có mặt tại đó và tôi hoàn toàn đặt tin tưởng nơi người. 
Như sư phụ đã nhắc nhở nhiều lần cho tôi biết, khi tôi mở được thần nhãn, tôi sẽ có thể nhìn rõ chân tướng của mọi người, mọi vật. Theo giáo lý huyền vi, thể xác con người chỉ là một lớp vỏ bên ngoài do chân ngã điều khiển, kể cả mọi tác động trong giấc ngủ và sau khi chết. Con người sinh ra trong một thể xác yếu đuối bất toàn để học hỏi kinh nghiệm và tiến bộ ở cõi trần. Khi ngủ, con người trở về một cảnh giới khác, thần thức thoát ra ngoài thể xác vật chất và phảng phất trong cảnh giới vô hình, nhưng vẫn còn giữ mối liên hệ với thể xác bằng một “sợi chỉ bạc”. Mối liên hệ này chỉ dứt hẳn vào một giai đoạn sau khi chết. 
Những giấc mộng là kinh nghiệm sống trong cảnh giới của thần thức. Khi thần thức trở về với thể xác, sự giật mình thức giấc làm biến dạng méo mó những ký ức của giấc mộng, trừ phi người ta đã trải qua một sự tu luyện đặc biệt. Vì thế, “giấc mộng” có thể trở nên dị kỳ đối với người thức giấc. 
---------------------------------ooOoo---------------------------------
Ngày trôi qua rồi đêm đến, và tôi đi vào căn phòng nhỏ nơi tôi sẽ ở lại đó. Bên ngoài có tiếng động nhẹ của những đôi giầy da mềm đi trên nền đá, ba vị Lạt Ma cao cấp bước vào. Họ đặt một miếng gạc làm bằng thảo dược lên trán tôi và băng chặt lại. Vào buổi tối, ba vị lại đến lần nữa, trong đó có Đại Đức Mingyar. Miếng gạc được bỏ đi một cách cẩn thận, trán tôi đã sạch sẽ và khô ráo. Một vị Lạt Ma trông khoẻ mạnh ngồi phía sau và giữ đầu tôi giữa hai đầu gối của ngài. Vị Lạt Ma thứ hai mở một cái hộp và lấy ra một dụng cụ làm bằng thép sáng bóng. Nó giống như một cái dùi nhưng thay vì có dáng trục tròn thì cái dùi này có hình chữ “U”, và thay cho mũi nhọn là những chiếc răng nhỏ xung quanh cạnh của chữ “U”. Vị Lạt Ma kiểm tra các dụng cụ một lát rồi hơ nó lên ngọn lửa đèn để khử trùng. Đại Đức Mingyar cầm tay tôi và nói: « Sẽ khá đau, Lobsang, và việc này chỉ có thể thực hiện được trong khi con hoàn toàn tỉnh táo. Sẽ không mất nhiều thời gian, vì vậy con hãy cố gắng hết sức. »
Tôi thấy nhiều dụng cụ khác nhau được bày ra la liệt, cùng với nhiều loại kem thảo dược, và tôi tự nhủ: “Được rồi, Lobsang, anh bạn của ta, dù cách nào thì họ cũng sẽ hoàn thành việc này và mình không thể làm gì khác được, ngoại trừ giữ im lặng!”
Vị Lạt Ma cầm dụng cụ trong tay nhìn quanh mọi người, và nói «Tất cả đã sẵn sàng chưa? Chúng ta hãy bắt đầu bây giờ, mặt trời vừa mới lặn xong.»
Ngài ấn dụng cụ vào giữa trán tôi và xoay tay cầm. Trong khoảnh khắc đó tôi có cảm giác như bị gai đâm. Thời gian với tôi như dừng lại. Không có cảm giác đau đặc biệt khi dụng cụ đó đâm xuyên qua da và thịt, nhưng tôi bị giật mình khi nó chạm vào xương. Ngài ấn mạnh hơn nữa, đu đưa nhẹ dụng cụ để những chiếc răng nhỏ khoan xuyên qua xương trán. Cơn đau không gay gắt, mà chỉ cảm thấy bị ấn mạnh và đau âm ỉ. Tôi ngồi bất động, bên cạnh là sư phụ đang chăm chú nhìn; tôi thà chết còn hơn là cử động hay kêu la. Người tin ở tôi, cũng như tôi tin người, và tôi biết rằng bất cứ điều gì người làm hay nói đều đúng cả. Người đang quan sát rất chăm chú, một nếp nhăn hằn sâu căng thẳng nơi khóe miệng người.
Đột nhiên có một tiếng “rắc” nhỏ và dụng cụ đã xuyên qua xương. Ngay lập tức, vị Lạt Ma giải phẫu nghe thấy và ngưng dụng cụ lại. Ngài nắm chắc cán dụng cụ, trong khi Đại Đức Mingyar chuyển cho ngài một mảnh gỗ sạch sẽ và rất cứng đã được xử lý qua lửa và thảo dược để làm cho nó cứng như thép. Mảnh gỗ được đưa vào chữ “U” của dụng cụ và trượt xuống để đặt vào cái lỗ trên đầu tôi. Vị Lạt Ma giải phẫu di chuyển sang một bên một chút để sư phụ cũng có thể đứng trước mặt tôi. Sau đó, với một cái gật đầu, nhà phẫu thuật vô cùng thận trọng đẩy nhẹ mẩu gỗ sâu hơn và sâu hơn. Đột nhiên tôi cảm thấy đau nhói, cảm giác buồn buồn nơi sống mũi. Cảm giác đó lắng dần, và tôi nhận ra mùi hương tinh tinh tế mà tôi không thể xác định. Rồi nó qua đi và được thay thế bằng cảm giác như thể tôi đang bị đẩy qua đẩy lại trên một tấm lưới đàn hồi. Bỗng một ánh sáng lóe lên, lập tức Đại Đức Mingyar nói “dừng lại”. Trong khoảnh khắc cơn đau dữ dội, rồi giống như có một ngọn lửa sáng trắng bùng lên. Cơn đau giảm dần và hết hẳn, thay vào đó là những hình xoắn ốc nhiều màu sắc, và những vệt khói sáng rực.
Dụng cụ kim loại được rút ra một cách cẩn thận. Mảnh gỗ được để lại trong hai hoặc ba tuần, và cho tới khi nó được lấy ra tôi sẽ phải ở lại căn phòng nhỏ này, hầu như trong bóng tối. Không ai được gặp tôi ngoại trừ ba vị Lạt Ma, những người sẽ tiếp tục hướng dẫn tôi hàng ngày.
Khi mảnh gỗ còn chưa được lấy ra, tôi chỉ được ăn uống rất ít để vừa đủ duy trì sự sống. Phần mảnh gỗ nhô ra được băng chặt để nó không thể dịch chuyển, Đại Đức Mingyar quay lại tôi và nói: « Lobsang, từ nay con đã thật sự trở thành một cao đồ trong môn phái của chúng ta. Kể từ nay cho đến suốt đời con, con sẽ nhìn thấy rõ chân tướng của mọi người chứ không chỉ là cái bề ngoài của họ.»
Lần đầu tiên trong đời tôi, thật là một sự kiện lạ lùng khi thấy rằng cả ba vị Lạt-ma đều được bao phủ quanh mình bằng một vầng hào quang vàng chói như ánh lửa. Về sau tôi mới hiểu rằng, đó là vì ba vị đã có một đời sống tinh khiết và không phải ai cũng có được một hào quang tốt đẹp như thế. Trái lại, đa số người đời có hào quang với hình dáng và màu sắc khác hẳn. 
Khi tôi đã phát triển thần nhãn, tôi còn phát hiện được những rung động khác nữa, xuất phát từ trung tâm của hào quang con người. Kế đó, tôi có thể biết tình trạng sức khỏe của một người bằng cách nhìn xem màu sắc và hình dáng vầng hào quang của người ấy. Cũng vậy, bằng cách quan sát sự thay đổi màu sắc trong hào quang của một người tôi có thể biết rằng người ấy nói thật hay nói dối. 
Tuy vậy, thần nhãn không phải chỉ dùng để quan sát thân thể của con người. Tôi còn được trao cho một quả cầu thủy tinh dùng để quan sát bằng thần nhãn và đến bây giờ tôi vẫn còn cất giữ. Những quả cầu thủy tinh này không phải là những vật nhiệm mầu gì cả, mà chỉ là những khí cụ. Cũng giống như một kính hiển vi hay kính viễn vọng có thể cho phép ta nhìn thấy những sự vật mà mắt thường không nhìn thấy được, một quả cầu thủy tinh có tác dụng như một khí cụ tập trung để sử dụng thần nhãn, giúp người ta có thể xâm nhập vào phần tiềm thức của mọi sự vật và nhìn thấy những sự việc diễn biến trong quá khứ hay tương lai xuất hiện trong đó. 
Mỗi loại thủy tinh không phải đều thích hợp với tất cả mọi người. Có người đạt được kết quả tốt hơn với loại thủy tinh khoáng thạch, có người lại thích hợp với một bầu pha lê. Những người khác nữa dùng một bồn nước trong hoặc một cái đĩa tròn màu đen huyền. Nhưng dù sử dụng kỹ thuật nào thì cũng vẫn cùng một nguyên tắc. 
Trong tuần đầu tiên căn phòng được giữ hầu như tối hoàn toàn. Tuần tiếp theo có một tia sáng le lói, rồi ánh sáng tăng dần cho đến cuối tuần. Vào ngày thứ mười bảy phòng được chiếu sáng hoàn toàn, và ba vị Lạt Ma cùng đến để lấy miếng gỗ ra. Công việc cũng đơn giản. Đêm hôm trước, trán tôi đã được bôi kem thảo dược. Sáng hôm sau, ba vị đến và, cũng như lần trước, một vị giữ đầu tôi giữa hai đầu gối. Vị Lạt Ma giải phẫu dùng dụng cụ kẹp phần nhô ra của mẫu gỗ. Một cú giật mạnh bất thình lình và đó là tất cả. Mẩu gỗ đã được lấy ra. Đại Đức Mingyar đặt một miếng gạc thảo dược lên chỗ vết thương chỉ còn là một lỗ rất nhỏ, và cho tôi xem mẩu gỗ. Nó đã chuyển màu đen như gỗ mun trong khi ở trong đầu tôi. Vị Lạt Ma phẫu thuật quay về phía cái lò than và đặt lên đó mẫu gỗ cùng với một vài hương liệu khác nhau. Khói thơm tỏa lên tới trần nhà, như vậy giai đoạn khởi đầu đã hoàn tất. Đêm đó tôi ngủ thiếp đi trong đầu quay cuồng những câu hỏi; Tzu có khác với những gì mà tôi đã biết hay không? Cha, mẹ, họ sẽ hiện ra như thế nào? Nhưng không có câu trả lời cho các câu hỏi như vậy.
Buổi sáng, các vị Lạt Ma lại đến và khám cho tôi một cách cẩn thận. Các ngài quyết định rằng tôi có thể rời khỏi phòng nhập thất và trở về với cuộc sống bình thường, nhưng sẽ phải dành phân nửa thời gian hằng ngày bên cạnh Đại đức Mingyar, để sư phụ giúp tôi tăng cường sự học đạo bằng một số phương pháp. Phân nửa thời gian còn lại sẽ dành cho những buổi học và lễ cầu nguyện, không phải vì mục đích giáo dục, mà là để cho tôi có một sự hiểu biết quân bình về mọi sự.
Ít lâu sau đó, khoa thôi miên cũng sẽ được sử dụng để dạy đạo cho tôi. Nhưng hiện giờ tôi chỉ nghĩ đến duy nhất vấn đề... ăn uống! Tôi đã phải ăn uống rất khắc khổ trong gần ba tuần, và nay tôi phải ăn bù lại. Tôi bèn hối hả từ biệt các vị Lạt-ma với ý nghĩ duy nhất ấy trong đầu tôi. Nhưng ra đến ngoài hành lang, tôi nhìn thấy một bóng người bao phủ trong một đám khói xanh với những vết lớn màu đỏ chói như lửa khắp thân mình. Tôi kêu lên một tiếng thất thanh và hối hả thối lui về phòng. 
Các vị Lạt-ma nhìn tôi một cách ngạc nhiên; tôi có vẻ gần như ngất xỉu vì sợ hãi và nói: «Có một người đang cháy như bó đuốc ở ngoài hành lang.»
Đại đức Mingyar chạy nhanh ra ngoài. Khi sư phụ trở lại phòng, người vừa mỉm cười vừa nói: « Lobsang, đó chỉ là một người lao công đang nóng giận. Hào quang của ông ta giống như một đám khói xanh, vì trình độ tâm linh còn thấp. Những vết lửa màu đỏ là những tư tưởng nóng giận. Con có thể đi ra một cách an toàn để tới phòng ăn, vì chắc con đã đói lắm! » 
Thật là một kinh nghiệm vô cùng lý thú khi tôi gặp lại những bạn học cũ mà trước kia tôi vẫn tưởng rằng tôi biết quá rõ, nhưng sự thật thì tôi chưa biết gì nhiều về họ cả! Nay tôi chỉ cần nhìn họ là đọc được những tư tưởng thầm kín, những tình thương chân thành, sự ganh tị hay sự thờ ơ lãnh đạm đối với tôi. 
Không phải chỉ nhìn những màu sắc trên hào quang của mỗi người mà biết được tất cả, người ta còn phải luyện tập giải đoán ý nghĩa của những màu sắc đó nữa. Để thực tập vấn đề này, sư phụ tôi và tôi cùng ngồi ở một chỗ vắng vẻ, từ đó chúng tôi có thể quan sát những người đi đường bước vào cổng đền. Đại đức Mingyar nói với tôi: 
– Lobsang, con hãy nhìn người kia đang đi tới. Con có nhìn thấy một đường chỉ màu đang rung động ở phía trên quả tim của y? Màu ấy và sự rung động ấy là triệu chứng của bệnh phổi! 
Sư phụ lại bình phẩm về một người lái buôn: 
– Con hãy nhìn những lằn ngang đang cử động và những đốm, vết đang chớp lập lòe trên hào quang của y... Người lái buôn này đang nghĩ rằng ông ta có thể lừa bịp những nhà sư ngu ngốc kia, và ông ta nhớ rằng đã có lần thành công như vậy rồi. Chỉ vì tiền bạc, người ta không lùi bước trước bất cứ hành vi ti tiện nào! 
Hoặc về một người khác nữa: 
– Lobsang, con hãy nhìn vị sư già kia. Đây là một vị sư chân tu, nhưng ông ta lại hiểu kinh điển một cách quá chật hẹp, sát nghĩa theo từng chữ từng câu một cách gò bó. Con có thấy chăng, màu vàng trên hào quang của ông ta đã phai nhạt? Đó là vì ông ta chưa đủ tiến hóa để có thể tự mình suy luận... 
Và như thế, chúng tôi tiếp tục quan sát để thực tập hằng ngày. Nhưng chính trong khi tiếp xúc với những người đau ốm, bệnh tật về thể xác cũng như tinh thần mà tôi mới thấy khả năng thần nhãn là vô cùng hữu ích. 
Một buổi chiều, sư phụ nói với tôi: 
– Sau này, ta sẽ dạy con nhắm mắt thần lại tùy ý muốn, vì thật là một điều khổ sở khi phải luôn luôn nhìn thấy trước mắt những cảnh tượng buồn thảm, bất toàn của người đời. Nhưng bây giờ, con hãy sử dụng năng khiếu đó thường xuyên, cũng như con sử dụng đôi mắt phàm. 
Những truyện thần thoại của xứ Tây Tạng quả quyết rằng trong quá khứ đã có một thời kỳ mà nhân loại, nam hay nữ, đều có thể sử dụng mắt thần. Đó là thời kỳ mà các đấng thần minh sống lẫn lộn với người trần gian, khi con người hãy còn chất phác, hồn nhiên và tâm hồn trong sạch. Nhưng về sau, loài người đã mở mang trí khôn, bèn sinh ra kiêu căng ngạo mạn và xúc phạm cả thánh thần. Để trừng phạt tội xúc phạm này, nhãn quang thần thông của họ bị thâu hồi. Kể từ đó, trải qua nhiều thế kỷ, chỉ có một số rất ít người sinh ra đã có năng khiếu thần nhãn. Những người nào có năng khiếu ấy một cách tự nhiên có thể tăng cường năng lực của họ lên gấp ngàn lần nhờ một phép tu luyện bí truyền, cũng như trường hợp của tôi. Lẽ tất nhiên, một năng lực đặc biệt như thế phải được sử dụng một cách cẩn mật và vô cùng thận trọng. 
Một ngày nọ, vị Sư trưởng cho gọi tôi vào gặp ngài và nói: 
– Này con, nay con đã có được một năng lực mà đa số mọi người không có. Con chỉ nên sử dụng nó để làm việc thiện, đừng bao giờ dùng nó vào những mục đích ích kỷ. Năng lực ấy được ban cho con để giúp đỡ kẻ khác chứ không phải để mưu lợi cho riêng mình. Nhờ thần nhãn, có nhiều điều sẽ được tiết lộ với con, nhưng dầu cho con biết được điều gì, con cũng không được tiết lộ cho người khác biết nếu điều đó có thể làm cho họ đau khổ hay làm thay đổi chiều hướng cuộc đời của họ. Vì mỗi người phải được tùy ý chọn lựa con đường của mình. Dầu cho con nói với họ điều gì, họ vẫn đi theo con đường của họ. Con hãy giúp đỡ những kẻ bệnh tật và những người đau khổ, nhưng con đừng nói gì có thể làm đổi hướng cuộc đời của một người. 
Vị Sư trưởng là một người có văn hóa rất cao, cũng là vị y sĩ thân tín của đức Đạt-lai Lạt-ma. Trước khi chia tay từ biệt, vị Sư trưởng cho tôi biết rằng không bao lâu tôi sẽ được gọi vào để yết kiến đức Đạt-lai Lạt-ma, vì ngài có ý muốn gặp tôi. Trong dịp đó, Đại đức Mingyar và tôi sẽ là khách của điện Potala trong vài tuần.
---------------------------------ooOoo---------------------------------
Nền tôn giáo Tây Tạng là một hình thức biến thiên của Phật giáo, nhưng có những nét đặc thù và cá biệt không hoàn toàn giống với Phật giáo ở bất cứ nơi nào khác. Người Tây Tạng xem đây là quốc giáo. Danh từ mà người Tây phương thường biết đến là Lạt-ma giáo (Lamaisme), vì các vị Lạt-ma luôn được xem là biểu tượng của Phật giáo Tây Tạng. 
Tín ngưỡng của người Tây Tạng đặt căn bản trên niềm hy vọng hướng thượng. Người Tây Tạng luôn tự nỗ lực trên con đường tiến hóa tâm linh và hoàn toàn không tin vào sự hiện diện của một vị Thượng đế độc tôn, toàn trí và toàn thông, coi sóc và che chở cho toàn thể nhân loại. 
Nhiều người có học phát biểu như thể rất uyên bác về tôn giáo của chúng tôi. Họ chỉ trích chúng tôi vì họ đang mù quáng bởi đức tin của mình đến mức không thể nhìn nhận những quan điểm khác. Vài người trong số họ thậm chí còn gọi chúng tôi là “quỷ xa tăng” bởi cách thức của chúng tôi xa lạ với họ. Đa số những tác giả này chỉ đưa ra quan điểm dựa trên các lời đồn đại hay những gì người khác viết. Một số ít có thể đã nghiên cứu đức tin của chúng tôi trong vài ngày và tưởng rằng mình biết tất cả để rồi viết những cuốn sách về chủ đề ấy trong khi những người uyên bác nhất của chúng tôi cũng phải mất cả đời để khám phá.
Hãy hình dung một Phật tử hay một tín đồ Ấn Giáo chỉ đọc lướt qua Kinh Thánh vài giờ và sau đó cố gắng giải thích tất cả khía cạnh tinh tế của Cơ đốc giáo! Chưa một tác giả viết về Lạt Ma giáo nào trong số họ đã sống như một tu sĩ trong một tu viện Lạt Ma từ nhỏ và nghiên cứu Sách Thánh. Đây là những cuốn sách bí truyền, nó bí truyền ở chỗ không dành cho những người muốn được cứu rỗi nhanh chóng, dễ dàng và tầm thường. Những người muốn tìm sự an ủi từ một số lễ nghi, hình thức tự thôi miên nào đó có thể có được điều đó nếu họ thấy có ích cho họ.
Tuy nhiên đó không phải là Sự Thật Ẩn Tàng, mà chỉ là tự huyễn rất trẻ con. Một số người nghĩ một cách dễ dãi rằng cứ phạm lỗi rồi lại phạm lỗi, rồi sau đó khi cảm thấy quá dằn vặt thì chỉ cần mang một chút lễ vật tới ngôi đền gần nhất để tạ lỗi và xin các vị thần tha thứ, thế là ngay lập tức tất cả mọi lỗi lầm được xoá bỏ. Quả thật là có một Thượng Đế, một Đấng Toàn Năng. Nhưng xin Ngài đâu ích gì vì Thượng Đế chính là sự thật.
Những người Tây Tạng đã từng học giáo lý của Đức Phật không bao giờ cầu nguyện để xin may mắn và ân huệ, trừ việc xin nhận được là sự công bằng từ Con Người. Một Đấng Tối Cao, theo bản chất của công lý, không thể tỏ lòng thương xót người này mà không thương xót người khác, bởi vì làm vậy là không công bằng. Cầu nguyện xin may mắn và ân huệ, rồi hứa hẹn dâng vàng và hương nếu lời cầu nguyện được đáp ứng khác gì ngụ ý sự cứu rỗi sẽ dành cho kẻ trả giá cao nhất, tức là Thượng Đế thiếu tiền và có thể “mua” được.
Con Người có thể tha thứ cho nhau, dù rất hiếm làm được, còn Đấng Tối Cao chỉ có thể biểu hiện công lý. Chúng ta là những linh hồn bất tử. Lời cầu nguyện của chúng tôi: “Om! Ma-ni pad-me Hum!” được viết ở phía dưới đây – thường được dịch theo nghĩa đen là “Ngọc quý trong Hoa Sen!” Chúng tôi, những người đi sâu hơn một chút hiểu rằng ý nghĩa thực sự của nó là : “Lòng từ bi rộng lớn!”3
Om! ma-ni pad-me Hum!
Có sự chết. Giống như người ta cởi bỏ bộ quần áo khi hết ngày, linh hồn cũng rời bỏ thân xác khi ngủ. Giống như bộ quần áo bị bỏ đi khi hỏng, linh hồn cũng bỏ thân xác khi nó đã mệt mỏi, kiệt sức và không còn sử dụng được nữa. Cái chết chính là sự sinh ra. Chết đơn thuần chỉ là việc sinh ra ở cõi khác. Con người, hay linh hồn của Con người, là vĩnh cửu. Thân xác chỉ là vỏ bên ngoài tạm thời bao bọc linh hồn, được chọn tương ứng với nhiệm vụ được trao cho khi sống trên trái đất. Vẻ bề ngoài không quan trọng, linh hồn bên trong mới là đáng kể. Một nhà tiên tri vĩ đại có thể xuất hiện trong vỏ bọc của một người nghèo đói - Một cách tốt để có thể phán xét được lòng nhân ái Con Người với Con người! – trong khi người khác là do phạm lỗi trong kiếp trước dù không bị đói nghèo dồn ép.
“Bánh xe Luân hồi” là cách mà chúng tôi gọi hoạt động của việc được sinh ra, sống trong một thế giới nào đó, chết đi, trở về trạng thái linh hồn, và đến đúng lúc lại được sinh ra trong những hoàn cảnh và điều kiện khác. Một người gặp nhiều đau khổ trong cuộc sống không hẳn là kẻ xấu ở kiếp trước, đó có thể là cách tốt nhất và nhanh nhất để học hỏi những điều nhất định. Trải nghiệm thực tế là một người thầy tốt hơn nghe nói!
Một người phạm tội tự sát có thể được tái sinh để sống cho những năm đã bị cắt ngắn trong kiếp trước, nhưng nó không phải luôn xảy ra như vậy đối với những ai đã chết trẻ, như trẻ sơ sinh chẳng hạn, hoặc những người tự tử. Bánh xe Luân hồi áp dụng cho tất cả, từ người ăn xin đến vua chúa, từ đàn ông đến đàn bà, từ người da màu đến da trắng. Tất nhiên, Bánh xe chỉ là biểu tượng, nhưng nó cũng đủ rõ cho những người không có thời gian để tìm hiểu sâu về đề tài này. Người ta không thể giải thích niềm tin của người Tây Tạng trong một vài đoạn ngắn. Thánh kinh Kangyur, hay Giáo lý Tây Tạng gồm trên một trăm cuốn sách về đề tài này mà thậm chí còn chưa đề cập đến được một cách đầy đủ. Có nhiều cuốn sách được cất giấu trong các ngôi chùa hẻo lánh mà chỉ có những người đã được điểm đạo mới được thấy.
Từ nhiều thế kỷ trước, các dân tộc phương Đông đã biết rõ về các sức mạnh huyền bí và những định luật thiên nhiên. Thay vì phủ nhận sự hiện hữu của những sức mạnh huyền linh ấy chỉ vì không thể cân lường hay quan sát phản ứng của chúng dưới ảnh hưởng các hóa chất trong phòng thí nghiệm, những bậc danh sư phương Đông đã cố gắng tăng gia khả năng kiểm soát của họ đối với những sức mạnh thần bí vô hình. Thí dụ như họ đã chú ý đến những kết quả thu được từ sự phát triển năng khiếu thần nhãn. 
Nhiều người cho rằng điều ấy không thể có, vì họ cũng chẳng khác nào những người mù từ thuở lọt lòng, cứ tưởng rằng không có thị giác chỉ vì họ không hề có kinh nghiệm về loại giác quan này! Làm sao họ có thể hình dung rằng một vật có thể được nhìn thấy từ xa trong không gian, khi không hề có một sự tiếp xúc nào giữa vật ấy và đôi mắt con người! 
Thể xác con người được bao phủ bằng một lớp vỏ như sương mù muôn màu nghìn sắc, đó là hào quang. Những vị có thần nhãn nhìn vào hào quang của một người, có thể quan sát các màu sắc đó mà hiểu được tình trạng sức khỏe, đức hạnh và trình độ tiến hóa của người ấy. 
Hào quang ấy là sự phát huy, sự biểu hiện của một luồng khí lực từ bên trong, tức Chân ngã của con người. Trên đầu con người cũng được bao trùm bởi một vòng hào quang xuất phát từ cái khí lực đó. Đến lúc chết, thì cái hào quang ấy tắt hẳn vì thần thức đã rời khỏi thể xác và đi vào một cảnh giới khác để bước sang một giai đoạn hiện hữu khác hơn. Khi đó, thần thức trở thành một “cái bóng” phất phơ, vì còn hoang mang bởi sự xúc động mạnh khi vừa rời khỏi xác thân vật chất. Có thể thần thức không hoàn toàn ý thức được những gì đang xảy ra. Bởi đó, các vị Lạt-ma có bổn phận giúp đỡ những người hấp hối và giảng giải cho họ nghe về những giai đoạn mang thân trung ấm mà họ sẽ trải qua. Nếu không, thần thức sẽ bám víu lấy cõi trần do những dục vọng của xác thịt còn chưa được thỏa mãn. Vai trò của các vị tăng lữ chính là cắt đứt những sợi dây trói buộc đó. 
Người Tây Tạng thường có những cuộc hành lễ cầu siêu để dìu dắt vong linh người chết. Sự chết không làm cho người Tây Tạng sợ sệt. Họ tin rằng với những nghi thức cẩn mật, thần thức có thể được giúp đỡ rất nhiều để chuyển sang cảnh giới tái sinh một cách dễ dàng. 
Cần phải vạch ra một lộ trình nhất định và rõ ràng, và hướng dẫn tư tưởng của người hấp hối một cách thích nghi. Một số cuộc lễ cầu siêu lớn được cử hành trong một ngôi đền trước sự hiện diện của chừng ba trăm vị sư. Một nhóm bốn hay năm vị Lạt-ma ngồi thành vòng tròn ở chính giữa và đối diện với nhau. Trong khi các nhà sư tụng niệm dưới sự điều khiển của một vị Sư trưởng, các vị Lạt-ma cố gắng tập trung niệm lực để giao cảm với những vong linh trong cõi vô hình. 
Những lời cầu nguyện bằng tiếng Tây Tạng thật khó mà dịch ra cho đủ nghĩa, nhưng tôi cũng xin lược dịch đại khái như sau: 
Hãy nghe đây tiếng gọi của chúng tôi, hỡi các vong linh đang phất phơ vô định ở cảnh giới của thân trung ấm. Âm dương cách trở, người sống và người chết sống ở những cảnh giới cách biệt nhau. Nhưng người chết có thể được nhìn thấy ở đâu? Ở đâu người ta có thể nghe được giọng nói của họ. 
Cây nhang đầu tiên được đốt lên để kêu gọi những vong linh lạc lõng và chỉ đường cho họ. 
Hãy nghe đây tiếng gọi của chúng tôi, hỡi các vong linh đang lạc lõng không người dìu dắt. Thế giới này là ảo ảnh. Cuộc đời chỉ là một giấc mộng. Có sinh có diệt, vật gì có lúc sinh ra ắt phải có lúc chết đi. Chỉ có Phật pháp là con đường duy nhất đưa đến sự sống thường tồn. Cầu cho vong linh được siêu sinh Tịnh độ. 
Cây nhang thứ nhì được đốt lên để kêu gọi những vong linh lạc lõng và chỉ đường cho họ. 
Hãy nghe đây tiếng gọi của chúng tôi, hỡi những bậc vua chúa oai quyền hống hách của thế gian. Các người đã ngự trị trên những dãy giang san của thiên hạ. Triều đại của các người chỉ tồn tại có một thời nhưng tiếng rên siết của dân tộc các người không bao giờ dứt. Do lòng tham vọng chinh phục đất đai, các người đã làm cho máu chảy thành sông, và những tiếng khóc than của kẻ bị trị còn làm rung chuyển cây cối, thấu đến trời xanh. Cầu cho vong hồn các người được siêu sinh Tịnh độ. 
Cây nhang thứ ba được đốt lên để kêu gọi vong hồn các bậc đế vương, những nhà độc tài trong thiên hạ và để chỉ đường cho họ. 
Hãy nghe đây tiếng gọi của chúng tôi, hỡi những kẻ bạc ác bất nhân và những kẻ trộm cướp của thế gian, các người đã gây nên tội ác đối với đồng loại và ngay trong lòng các người không có sự bình an. Linh hồn các người vất vưởng không nơi nương tựa và công lý không có trong tâm các người. Cầu cho linh hồn các người được siêu sinh Tịnh độ... 
Cây nhang thứ tư được đốt lên để kêu gọi vong hồn những kẻ tội lỗi đang vất vưởng trong cô quạnh. 
Hãy nghe đây tiếng gọi của chúng tôi, hỡi những nàng kỹ nữ lầu xanh của thế gian, những người buôn hương bán phấn mà tội lỗi của bọn đàn ông đã làm cho ô uế, nay đang đi lang thang vô định trong cõi u minh tăm tối. Cầu cho vong hồn các người được siêu sinh Tịnh độ. 
Cây nhang thứ năm được đốt lên để kêu gọi vong hồn các người đàn bà tội lỗi, sa đọa, để dìu dắt và giải thoát cho họ khỏi những sự trói buộc của trần gian... 
Khói hương nghi ngút tỏa trong bóng tối chập chờn những ngọn đèn bơ leo lét, làm rung rinh những bóng đen phía sau các pho tượng thếp vàng. Sự căng thẳng càng tăng, các vị Lạt-ma đang tập trung tư tưởng để giao cảm với những vong linh chưa được giải thoát khỏi những sợi dây trói buộc với cõi trần.
Những nhà sư mặc áo tràng màu đỏ ngồi sắp từng hàng đối diện với nhau, cất giọng ngân nga tụng niệm những bài kinh cầu siêu cho các vong linh, những tiếng trống vang lên theo nhịp tim đập. Từ những nơi khác trong đền thờ, như trong một cơ thể sống động, là những tiếng rền của nội tạng, tiếng ọc ạch của dịch trong cơ thể, và tiếng rì rào của không khí trong phổi. Cuộc lễ tiếp diễn với những lời chỉ dẫn được đưa ra cho các vong linh và nhịp độ của những lời cầu siêu tụng niệm mỗi lúc một thưa dần, cho đến khi cuối cùng là tiếng linh hồn rời khỏi cơ thể. Tiếng thở hắt ra run rẩy, và rồi im lặng. Sự im lặng đến cùng với cái chết. Bên trong sự im lặng đó là sự nhận thức, có thể nhận thức rõ thậm chí cả linh hồn nhỏ bé nhất, nhận thức về tất cả những thứ khác xung quanh, đang chờ đợi, đang lắng nghe. Dần dần, khi những lời chỉ dẫn giao cảm tiếp tục được đưa ra, sự căng thẳng giảm dần khi những linh hồn chuyển đến giai đoạn tiếp theo trên cuộc hành trình của họ.
Người Tây Tạng chúng tôi tin chắc chắn rằng chúng ta tái sinh nhiêu lần. Nhưng không chỉ đơn thuần tới trái đất này. Có hàng triệu thế giới, và chúng tôi biết rằng ở hầu hết những nơi đó có sự sống. Cư dân ở đó có thể có hình dạng khác với những gì chúng ta đã biết, họ có thể tiến hóa cao hơn nhân loại trên trái đất. Người Tây Tạng chúng tôi không bao giờ đồng ý với quan điểm cho rằng Con Người là dạng tiến hóa cao nhất và cao quý nhất. Chúng tôi tin rằng có nhiều hình thái của sự sống cao hơn nhiều ở đâu đó, và họ không ném bom nguyên tử. Ở Tây Tạng tôi đã nhìn thấy hồ sơ về những vật thể lạ trên bầu trời. Thường người ta gọi chúng là “Cỗ xe của các vị Thần” . Đức Lạt Ma Mingyar có lần kể với tôi rằng một nhóm các Thầy đã giao tiếp bằng tư tưởng với các vị “Thần” này, họ nói rằng đang quan sát trái đất, giống như cách loài người quan sát động vật hoang dã và nguy hiểm trong vườn thú vậy.
Rất nhiều bài viết về khinh thân. Điều đó là có thể vì tôi thường nhìn thấy, nhưng cần phải thực hành nhiều. Luyện tập khinh thân không mang lại lợi ích thực sự lắm bởi có một cơ chế đơn giản hơn thế rất nhiều, đó là di chuyển bằng thể vía, nó còn dễ dàng hơn và hiệu quả hơn. Phần lớn các vị Lạt Ma đều làm thế, và bất cứ người nào được chuẩn bị để để dùng tính kiên nhẫn đều có thể được thưởng thức nghệ thuật hữu ích và thú vị này.
Khi còn sống, thần thức con người luôn gắn liền với thể xác, không thể tách rời ra ngoài, trừ phi có trải qua sự tu tập. Khi chúng ta ngủ, chỉ có thể xác là cần sự nghỉ ngơi, còn thần thức thì thoát ra ngoài và rơi vào cảnh giới tâm linh, như một đứa trẻ trở về nhà vào lúc chiều tối, sau giờ tan học. 
Thần thức và thể xác được nối với nhau bằng một “sợi chỉ bạc”, có khả năng nới rộng không giới hạn. Khi thể xác còn sống, sợi chỉ bạc còn nguyên vẹn, khi thể xác chết, sợi chỉ đứt và linh hồn lại có một cuộc đời mới ở một thế giới khác của nó, giống như dây rốn của em bé được cắt đứt khỏi người mẹ khi sinh ra.
Đối với một hài nhi, khi sinh ra đời có nghĩa là chấm dứt sự sống được bao bọc, che chở trong bụng mẹ. Đối với một con người, sự chết có nghĩa là đi vào một cảnh giới tâm linh tự do hơn, không còn gắn liền với thể xác vật chất, để chuẩn bị cho sự tái sinh trong một kiếp sống mới. Giai đoạn này được gọi là thân trung ấm
Khi sợi chỉ bạc còn nguyên vẹn, thần thức được tự do đi lang thang trong khi ngủ với người bình thường, hoặc thức trong trường hợp được huấn luyện đặc biệt. Việc đi lang thang của thần thức tạo ra các giấc mơ, đó là những ấn tượng được truyền qua sợi chỉ bạc. Bộ não vật lý nhận chúng và “hợp lý hóa” cho phù hợp với niềm tin của họ trên thế giới vật chất này. Trong thế giới tâm linh không có thời gian – “thời gian” là khái niệm thuần túy vật lý – và vì thế có những trường hợp giấc mơ trải dài và phức tạp dường như xảy ra chỉ trong một phần nhỏ của giây. Hầu như ai cũng có những giấc mơ gặp và nói chuyện với một người ở rất xa, thậm chí bên kia đại dương. Một số thông điệp đã có thể được chuyển đến và những ấn tượng mạnh về điều gì đó vẫn còn lưu trong trí nhớ khi thức dậy. Thường thì đó là ký ức về việc gặp gỡ một người bạn ở xa hoặc người thân, và cũng không ngạc nhiên khi một thời gian ngắn sau đó lại nhận được tin tức từ chính người ấy. Đối với những người chưa được đào tạo, ký ức này thường bị bóp méo và kết quả là một giấc mơ phi lý hoặc là ác mộng.
Ở Tây Tạng, chúng tôi du hành đa số bằng cách xuất vía hơn là bằng khinh công – và toàn bộ quá trình đều trong tầm kiểm soát của chúng tôi. Thần thức được rời khỏi cơ thể vật lý, mặc dù vẫn còn kết nối với nó bằng sợi chỉ bạc. Người ta có thể du hành bất cứ nơi đâu mình muốn, và nhanh như ý nghĩ. Hầu hết mọi người đều có khả năng du hành bằng thể vía. Đa số khi bắt đầu xuất vía, với người không được đào tạo, đều có trải nghiệm về một cú giật mình. Có thể tất cả mọi người đều đã từng trải qua một lần cảm tưởng là chỉ đi ngủ, và sau đó bị thức giấc đột ngột vì một cú giật mạnh mà không rõ lý do. Điều này là do sự xuất ra khỏi cơ thể quá nhanh của thần thức, sự tách ra quá đột ngột của thể vía và thể xác dẫn tới sự co thắt của sợi chỉ bạc, và thể vía bị buộc phải quay vào cơ thể vật lý. Cảm giác thật tồi tệ khi vừa mới du hành đã phải về. Thể vía lơ lửng bên trên cơ thể vật lý vài mét, giống như quả bóng buộc vào đầu một sợi dây. Bỗng một cái gì đó, chẳng hạn như tiếng ồn ở bên ngoài, làm cho thể vía quay trở lại cơ thể quá nhanh. Cơ thể vật lý thức giấc đột ngột, và một cảm giác kinh khủng như thể bị rơi khỏi vách đá và đúng lúc đó thức dậy.
Du hành bằng thể vía dưới sự kiểm soát đầy đủ và trong khi thức tỉnh hoàn toàn là cách mà bất cứ ai cũng có thể thực hiện. Nó cần phải luyện tập, nhưng trên hết trong giai đoạn đầu cần có không gian biệt lập một mình để không sợ bị gián đoạn. Đây không phải là một cuốn sách giáo khoa siêu hình, vì vậy không có chỉ dẫn chi tiết về cách du hành bằng thể vía, nhưng điều này cần phải được nhấn mạnh vì nó có thể tạo ra trải nghiệm lo lắng, trừ khi được một người thầy giám sát. Thực tế thì không có nguy hiểm gì cả nhưng nó có thể làm ta giật mình và rối loạn cảm xúc nếu thể vía xuất ra hoặc trở về thể xác không đúng lúc hoặc tuỳ tiện. Những người bị bệnh tim không nên thực hành việc xuất vía. Việc xuất vía tự nhiên không có gì nguy hiểm gì nhưng với người yếu tim sẽ rất nguy hiểm nếu có ai đó vào phòng và làm rối loạn sự kết nối của cơ thể và sợi chỉ bạc. Hậu quả của cú sốc có thể gây tử vong, và điều này phiền phức thật sự khi mà tâm thức, được tái sinh để hoàn thành một quãng đời quan trọng trước khi nó có thể xử lý cho giai đoạn tiếp theo.
Người Tây Tạng chúng tôi tin rằng trước đây loài người có nhiều khả năng như du hành bằng thể vía, nhìn bằng thần nhãn, thần giao cách cảm, và khinh thân. Thế hệ loài người chúng ta đã lạm dụng các quyền lực huyền bí và sử dụng chúng vì lợi ích của bản thân thay vì cho mục đích phát triển của nhân loại nói chung. Từ thuở sơ khai ban đầu, nhân loại có thể trò chuyện với nhau bằng thần giao cách cảm. Những bộ lạc địa phương có những phiên bản ngôn ngữ mà họ sử dụng riêng cho mình. Khả năng nói chuyện bằng thần giao cách cảm, tất nhiên, là thông qua tư tưởng, và có thể hiểu được tất cả, bất kể ngôn ngữ địa phương. Khả năng thần giao cách cảm đã bị mất đi, vì sự lạm dụng của loài người, như đã biết về câu chuyện tháp Babel4!
Chúng tôi không có ngày như là “Ngày lễ Sa-bat”, nhưng chúng tôi có “Ngày Lễ Hội” và được cử hành lễ hội vào ngày thứ tám và mười lăm hàng tháng. Rồi còn có những buổi lễ cầu nguyện đặc biệt và những ngày được coi là linh thiêng, và chúng tôi không làm việc trong những ngày đó. Lễ hội hàng năm của chúng tôi, tôi nghe nói, tương ứng phần nào với lễ hội của Kito giáo, nhưng những hiểu biết của tôi gần như không đủ để có thể nhận xét về vấn đề này. Những ngày lễ hội của chúng tôi gồm:
Tháng đầu tiên, gần như tương ứng với Tháng Hai, từ ngày đầu tiên đến ngày thứ ba, chúng tôi cử hành lễ Logsar. Lễ này, trong thế giới phương Tây, sẽ được gọi là Năm Mới. Đó là một cơ hội tuyệt vời cho những trò chơi cũng như các buổi lễ cầu nguyện tôn giáo. Lễ hội lớn nhất của chúng tôi trong năm được tổ chức từ ngày thứ tư đến ngày thứ mười lăm, đó là những “Đại Lễ Hội Cầu Nguyện”. Chúng tôi đặt tên cho những ngày này là Monlam. Buổi lễ này thực sự là điểm nhấn của năm tôn giáo và thế tục. Vào ngày mười lăm của cùng tháng này chúng tôi kỷ niệm ngày thụ thai của Đức Phật. Lúc này không phải thời gian cho các trò chơi, mà là một trong những buổi lễ tạ ơn trọng thể. Kết thúc tháng, vào ngày hai mươi bảy, chúng tôi có buổi lễ một phần mang tính tôn giáo, một phần là huyền thoại. Đây là lễ rước Holy Dagger. Với lễ hội này, những sự kiện của tháng đầu tiên kết thúc.
Tháng thứ hai, gần như Tháng Ba của lịch phương Tây, có khá ít buổi lễ. Vào ngày hai mươi chín, có lễ Săn đuổi ma quỷ. Tháng thứ ba, tương ứng với Tháng Tư, cũng có rất ít lễ hội. Vào ngày thứ mười lăm của tháng có lễ kỷ niệm Khải Huyền.
Đến ngày thứ tám của tháng thứ tư, khoảng Tháng Năm theo lịch phương Tây, chúng tôi cử hành lễ kỷ niệm Sự từ bỏ thế giới của Đức Phật. Lễ kỷ niệm này, theo như tôi hiểu, tương tự với Mùa Chay của Kito giáo. Chúng tôi phải sống rất khổ hạnh trong những ngày lễ Từ bỏ. Ngày thứ mười lăm là kỷ niệm ngày mất của Đức Phật. Chúng tôi coi đó là ngày kỷ niệm cho tất cả những người đã rời bỏ cuộc đời này. “Ngày của tất cả các Linh hồn” là một thuật ngữ khác cho nó. Trong ngày đó chúng tôi thắp hương để kêu gọi những linh hồn đang lang thang trên Trái Đất.
Cần hiểu đây chỉ đơn thuần là những lễ hội lớn, còn có nhiều ngày lễ nhỏ đã được ghi nhớ lại, và tổ chức lễ hội, nhưng sẽ không nêu ra ở đây.
Tháng sáu đến, vào ngày thứ năm, chúng tôi – những “Lạt Ma y tế” – tham dự những lễ hội đặc biệt tại các lạt ma viện khác. Lễ hội nhằm tri ân sự Chăm sóc của các Nhà sư y tế, trong đó có Đức Phật là người đã đặt nền móng cho công việc này. Vào ngày hôm đó chúng tôi có thể không làm gì sai, nhưng vào ngày hôm sau chắc chắn chúng tôi sẽ bị yêu cầu giải thích về những sai lầm mà người giám sát cho là chúng tôi đã gây ra!
Lễ kỷ niệm Phật Đản là ngày thứ tư của tháng thứ sáu, tức Tháng Bảy lịch phương Tây. Sau đó chúng tôi cũng tổ chức lễ kỷ niệm bài Thuyết pháp đầu tiên về Phật Pháp.
Lễ hội Mùa là vào ngày thứ tám của tháng thứ tám, tức Tháng Mười lịch phương Tây. Bởi vì Tây Tạng là một xứ sở đất đai khô cằn, chúng tôi phụ thuộc vào các con sông nhiều hơn bất kỳ đất nước nào. Lượng mưa ở Tây Tạng rất thấp, vì thế chúng tôi kết hợp Lễ hội Mùa với Lễ hội Nước, vì nếu không có nước từ các con sông thì không thể có mùa màng từ đất đai.
Ngày thứ hai mươi hai của tháng thứ chín, tức Tháng Mười Một, là ngày kỷ niệm Đức Phật xuống từ Thiên Đàng. Tháng tiếp theo, tháng thứ mười, chúng tôi cử hành Lễ hội Đèn vào ngày hai mươi lăm.
Sự kiện tôn giáo cuối cùng của năm được cử hành vào hai ngày thứ hai mươi chín và ba mươi của tháng mười hai, đây là thời gian giao nhau của Tháng Một và Tháng Hai theo lịch phương Tây. Tại thời điểm này chúng tôi có lễ Tiễn biệt năm cũ và chuẩn bị sẵn sàng cho năm mới.
Lịch của chúng tôi thực sự khác với lịch phương Tây: chúng tôi sử dụng chu kỳ sáu mươi năm và mỗi năm được gán cho mười hai con vật và ngũ hành kết hợp khác nhau. Năm mới là vào Tháng Hai. Dưới đây là Lịch Năm cho chu kỳ hiện nay được bắt đầu từ năm 1927:

1927 năm của Hỏa Mão (Fire Hare);
1928, năm con Thổ Thìn (Earth Dragon);
1929, năm của con Thổ Tỵ (Earth Serpent);
1930 năm của Kim Ngọ(Iron Horse);
1931 năm của Kim Mùi (Iron Sheep);
1932 năm của Thủy Thân (Water Ape);
1933 năm của Thủy Dậu (Water Bird);
1934 là năm Mộc Tuất (Wood Dog);
1935, năm của Mộc Hợi (Wood Hog);
1936, năm của Hỏa Tý (Fire Mouse);
1937, năm con Hỏa Sửu (Fire Ox);
1938, năm Thổ Dần (Earth Tiger);
1939 năm của Thổ Mão (Earth Hare);
1940, năm của Kim Thìn (Iron Dragon);
1941, năm của Kim Tỵ (Iron Serpent);
1942, năm của Thủy Ngọ (Water Horse);
1943 năm của Thủy Mùi;
1944 năm của Mộc Thân;
1945 năm của Mộc Dậu;
1946, năm Hỏa Tuất;
1947, năm của Hỏa Hợi;
1948, năm của Thổ Tý;
1949 năm Thổ Sửu;
1950 năm của Kim Dần;
1951, năm Kim Mão;
1952, năm Thủy Thìn;
1953, năm Thủy Tỵ;
1954, năm Mộc Ngọ;
1955 năm Mộc Mùi;
1956, năm Hỏa Thân;
1957, năm Hỏa Dậu;
1958, năm Thổ Tuất;
1959, năm Thổ Hợi;
1960 năm Kim Tý;
1961, năm Kim Sửu;
và vân vân.
Người Tây Tạng tin rằng người ta có thể tiên đoán những việc xảy ra trong tương lai. Khoa tiên tri là một khoa học, và một khoa học chính xác. Họ cũng tin ở khoa chiêm tinh. Theo họ, những “ảnh hưởng của tinh tú” thật ra chỉ là những tia vũ trụ do các tinh tú phản chiếu xuống địa cầu, và các tia vũ trụ đó phải chịu sự khúc xạ hoặc biến đổi bởi những tinh tú. 
Kỹ thuật nhiếp ảnh ngày nay không còn xa lạ với bất cứ ai. Chúng ta đều biết rằng, với một cái máy ảnh trong điều kiện đủ ánh sáng, ta có thể chụp ảnh. Và có một số loại kính lọc ánh sáng đặc biệt, nếu đặt trước ống kính máy ảnh có thể giúp ta thu được những tấm ảnh với hàng trăm loại màu sắc. Cũng vậy, những tia vũ trụ ảnh hưởng đến con người bằng vô số những cách khác nhau, tùy theo tác động của những tinh tú khi phản chiếu các tia vũ trụ ấy xuống địa cầu. 
Đức Phật dạy: “Thuật chiêm tinh, dự đoán sự kiện may mắn hoặc không may mắn qua các dấu hiệu, báo trước điều tốt hay xấu, tất cả những việc làm này đều bị cấm.” Tuy nhiên, một sắc lệnh sau này tại một trong những Sách Thánh của chúng tôi nói: “Quyền năng được trao cho một số người theo cách tự nhiên, và vì quyền năng đó mà những cá nhân chịu đựng đau đớn và khổ sở có thể được sử dụng. Không sức mạnh huyền bí nào được sử dụng vì mục đích cá nhân, cho tham vọng thế gian, hoặc để chứng tỏ tính xác thực của những quyền năng như vậy. Chỉ có như vậy những người không có năng khiếu huyền bí mới được bảo vệ.” Việc đạt được khả năng về con mắt thứ ba của tôi phải trải qua nhiều đau đớn, và nó đã làm tăng khả năng mà tôi vốn có ngay từ khi mới sinh ra. Nhưng chúng ta sẽ quay trở lại việc mở con mắt thứ ba trong một chương sau. Đây là dịp tốt để đề cập nhiều hơn đến thuật chiêm tinh, và viện dẫn tên của ba người Anh nổi tiếng, những người này đã chứng kiến lời tiên tri bằng thuật chiêm tinh đã thành sự thật.
Kể từ thế kỷ 11, tất cả những vấn đề chính sự quan trọng ở Tây Tạng đều được cân nhắc quyết định dựa theo khoa chiêm tinh. Chẳng hạn, cuộc xâm lăng của quân đội Anh năm 1904 đã được tiên tri một cách chính xác. Người ta có ghi chép lời tiên tri này bằng chữ Tây Tạng, tạm dịch như sau: 
Năm Mộc Thìn. 
Trong nửa năm đầu, đức Đạt-lai Lạt-ma sẽ được bình yên. Sau đó, những kẻ xâm lăng hiếu chiến sẽ tiến vào lãnh thổ. Quân địch rất đông, nạn binh đao gây nhiều tai họa và dân chúng sẽ phải chiến đấu chống lại. 
Đến cuối năm sẽ có sự giải hòa và chiến tranh sẽ chấm dứt.” 
Lời tiên tri này đã có từ trước năm 1850, báo trước tình hình của năm 1904, tức năm Mộc Thìn theo lịch Tây Tạng. Đại tá Younghusband, Tư lệnh quân đội Anh, có nhìn thấy bản văn ghi chép lời tiên tri này ở thủ đô Lhasa. 
Ông L. A. Waddell, cũng người của quân đội Anh, đã nhìn thấy bản in lời tiên tri vào năm 1902. Ông Charles Bell, người sau này cũng đã tới Lhasa, cũng đã nhìn thấy nó. Một vài sự kiện khác cũng được tiên tri chính xác là:
1910, Trung Quốc xâm chiếm Tây Tạng;
1911, Cách mạng Trung Quốc và sự thành lập Chính phủ Quốc dân đảng Trung Quốc;
Cuối năm 1911, quân Trung Quốc bị đuổi khỏi Tây Tạng;
1914, chiến tranh giữa Anh và Đức;
1933, Đức Đạt Lai Lạt Ma qua đời;
1935, sự tái sinh của Đức Đạt lai Lạt ma;
1950, “lực lượng quỷ ác sẽ xâm chiếm Tây Tạng”.
Trung Quốc xâm lược Tây Tạng vào tháng Mười năm 1950. Ông Bell, sau này là ông Charles Bell, đã nhìn thấy toàn bộ những lời tiên tri này ở Lhasa. Trong trường hợp của riêng tôi, tất cả mọi điều tiên tri về tôi đều đã thành sự thật. Đặc biệt là những thử thách gay go gian khổ.
Khoa học – nó vì mục đích khoa học – trong việc chuẩn bị một lá số tử vi không phải là một vấn đề có thể giải quyết trong một vài quyển sách loại này. Nói ngắn gọn, thì nó bao gồm việc chuẩn bị một cái bản đồ của bầu trời vào thời điểm thụ thai và khi sinh. Giờ sinh chính xác được biết đến, và thời gian đó được dịch thành “thời gian chiếu mệnh”, mà nó rất khác với múi giờ của thế giới. Khi vận tốc quay của Trái đất trong quỹ đạo của nó là mười chín dặm một giây5, sẽ thấy rằng sự không chính xác sẽ tạo ra sự khác biệt rất lớn. Tại đường xích đạo tốc độ quay của Trái đất khoảng một nghìn bốn mươi dặm một giờ6. Thế giới bị nghiêng trong khi quay, và Bắc Cực đi trước Nam Cực khoảng ba nghìn một trăm dặm7 về mùa thu, nhưng sang mùa xuân thì ngược lại. Do đó, tọa độ kinh tuyến của nơi sinh có tầm quan trọng sống còn.
Khi bản đồ đã được chuẩn bị, những người đã được đào tạo ở mức cần thiết, có thể giải thích ý nghĩ của chúng. Mối tương quan của mọi hành tinh phải được đánh giá, và các ảnh hưởng, tác động trên bản đồ của từng cá nhân phải được tính toán. Chúng tôi chuẩn bị Biểu đồ Thụ thai để biết được những ảnh hưởng tác động ngay trong những khoảnh khắc đầu tiên của sự sống của một con người. Bản đổ Sinh chỉ ra ảnh hưởng tác động tại thời điểm con người gia nhập thế giới này. Để biết về tương lai – chúng tôi chuẩn bị bản đồ về thời gian để người ta phải đọc và so sánh nó với Biểu đồ Sinh. Người ta có thể nói: “Bạn có thể thực sự dự đoán ai sẽ là người đạt được 2.30?” Câu trả lời là không! Không thể nào lại lập tử vi cho tất cả người, ngựa và chủ ngựa liên quan đến cuộc đua. Nhắm mắt và bắt tay vào danh sách là cách tốt nhất ở đây. Chúng tôi có thể nói liệu một người có hồi phục khỏi căn bệnh, hoặc Tôm sẽ cưới Mary và họ sẽ sống hạnh phúc mãi mãi, nhưng vấn đề đó do cá nhân xử lý. Chúng tôi cũng có thể nói rằng nếu Anh và Mỹ không ngăn chặn, thì một cuộc chiến tranh sẽ nổ ra trong năm Mộc Thìn, mà trong chu kỳ này thì đó là năm 1964. Sau đó trong tình huống này, vào cuối thế kỷ, sẽ có màn pháo hoa hấp dẫn những ai quan sát sao Hỏa và sao Kim.
Một điểm nữa mà nó dường như hay làm những người phương Tây lúng túng là câu hỏi về việc lần theo những cuộc đời đã qua của một người. Những người không hiểu về vấn đề này nói rằng không thể làm được, cũng giống như người bị điếc nói: “Tôi không nghe thấy âm thanh nào cả, do đó không có âm thanh.” Lần theo các kiếp sống trước là có thể làm được. Phải mất nhiều thời gian, phải làm việc nhiều với các biểu đồ và tính toán. Một người có thể đứng ở một sân bay và tự hỏi về các cuộc gọi cuối cùng của chiếc máy bay đang đến. Những người nhìn vào từ bên ngoài có lẽ có thể đoán, nhưng nhân viên của trạm kiểm soát không lưu, với những kiến thức chuyên môn của mình, có thể trả lời được. Nếu một người đi tham quan bình thường có một danh sách các tên và số đăng ký chuyến bay, và có một bảng lịch trình chính xác, anh ta có thể tự mình tìm ra các cổng của các cuộc gọi. Chúng tôi cũng có thể tìm như thế với các kiếp trước. Sẽ cần một quyển sách hoàn chỉnh, ít nhất cũng để làm cho quá trình được rõ ràng và vì thế sẽ là vô ích để đào sâu hơn nữa bây giờ. Có thể bạn đọc quan tâm đến thuật chiêm tinh của người Tây Tạng. Chúng tôi có mười chín biểu tượng trong mười hai Ngôi nhà của Thuật Chiêm tinh. Những biểu tượng đó chỉ ra:
Nhân cách và tính tư lợi;
Tài chính, làm thế nào người ta có thể đạt được hoặc bị mất tiền;
Những mối quan hệ, những chuyến đi ngắn, năng lực về tinh thần và văn phong;
Tài sản và các điều kiện gần cuối cuộc đời;
Con cái, niềm vui và quan hệ buôn bán kinh doanh;
Bệnh tật, công việc và vật nuôi trong nhà;
Quan hệ đối tác, hôn nhân, kẻ thù và kiện tụng;
Tài sản thừa kế;
Các chuyến đi dài và các vấn đề tâm linh;
Nghề nghiệp và danh dự;
Tình bạn và những tham vọng;
Khó khăn, hạn chế, và những nỗi buồn thầm kín.
Chúng tôi cũng có thể nói thời gian gần đúng, hoặc trong những điều kiện gì, các sự cố sau đây sẽ xảy ra:
Tình yêu, loại người và thời gian gặp gỡ;
Hôn nhân, khi nào, và nó sẽ diễn ra như thế nào;
Niềm đam mê, bản tính “giận dữ điên cuồng”;
Thảm họa, và nó sẽ xảy ra như thế nào, hoặc nếu có, nó sẽ như thế nào;
Tai ương;
Cái chết, khi nào và như thế nào;
Nhà tù, hoặc những hình thức khác của sự giam giữ;
Bất hòa, gia đình thông thường và tranh chấp trong kinh doanh;
Linh hồn, các giai đoạn tiến hóa đã đạt được;
Mặc dù tôi sử dụng chiêm tinh học khá nhiều, tôi thấy phương pháp đo nghiệm hoạt động tinh thần và “tinh thể” nhanh hơn nhiều và hoàn toàn chính xác. Phương pháp này cũng dễ hơn khi người đó có ngoại hình xấu! Phép đo hoạt động tinh thần là nghệ thuật của việc tìm lại được những ấn tượng mờ nhạt của các sự kiện xảy ra trong quá khứ từ một bài báo. Mọi người đều có khả năng này ở một mức độ nào đó. Một người vào một nhà thờ hoặc ngôi đền cổ, có tiếng là linh thiêng từ nhiều năm qua, và sẽ nói rằng: “Không khí thật êm đềm và nhẹ nhàng làm sao!” Nhưng cũng người đó đi thăm một nơi đã từng có án mạng khủng khiếp và than phiền: “Ôi! Tôi không thích nơi này, nó thật kỳ quái, chúng ta đi ra ngoài thôi.”
Tinh thể thì khác. “Thủy tinh”, như đã đề cập trên đây, chỉ đơn thuần là tập trung các tia sáng từ Con Mắt Thứ ba theo cách tương tự như tia X-quang được đưa đến tập trung vào trên màn hình, và hiển thị một hình ảnh huỳnh quang. Không có gì là phép thuật ở đây cả, mà chỉ là vấn đề sử dụng các quy luật tự nhiên.
Ở Tây Tạng, chúng tôi có chứng tích về “Quy Luật Tự nhiên”. Những tượng đài của chúng tôi có chiều cao từ một mét rưỡi đến mười lăm mét, là vật tượng trưng giống như thánh giá, hoặc biểu tượng. Những tượng đài này được dựng khắp nơi trên đất nước Tây Tạng. Trên bản đồ phác họa của Lhasa có năm tượng đài, Pargo Kaling là cái lớn nhất, và là một trong những cửa ngõ vào thành phố. Tượng đài luôn luôn có hình dáng như trong hình minh họa dưới đây. Hình vuông biểu thị nền tảng vững chắc của Trái Đất. Bên trên nó là Quả Cầu Nước, phủ bên trên lên là Hình Nón Lửa. Phía trên là đĩa bay không gian, và trên cao hơn Linh hồn lung linh (Dĩ thái) đang chờ đợi để rời khỏi thế giới vật chất. Mỗi một phần tử phát triển theo cách tiến bộ từng bước. Đó là toàn bộ biểu tượng hóa tín ngưỡng của người Tây Tạng.
Chúng ta đến Trái Đất khi chúng ta được sinh ra. Trong suốt cuộc đời mình, chúng ta luôn tiến lên phía trước, hoặc cố gắng tiến lên, bằng cách tiến bộ từng bước. Cuối cùng, khi hơi thở của chúng ta chấm dứt, và chúng ta bước vào thế giới tâm linh. Rồi sau một khoảng thời gian khác nhau, chúng ta lại tái sinh, để học một bài học khác. Bánh xe luân hồi là biểu tượng cho vòng tròn bất tận của sự sinh - sống – chết – linh hồn – sinh – sống, và vân vân. Nhiều sinh viên nhiệt tình phạm sai lầm nghiêm trọng khi nghĩ rằng chúng tôi tin vào những địa ngục khủng khiếp đôi khi được vẽ trên bánh xe. Chỉ một vài người ác ý không hiểu biết mới có thể nghĩ như vậy, còn những người đã được soi sáng chân lý thì không. Những người Kito giáo có thực sự tin rằng khi họ chết quỷ sa tăng và lũ quỷ dữ sẽ bận rộn với những đòn tra tấn hỏa ngục? Họ có tin rằng nếu họ đi đến nơi khác (chỉ một thiểu số người tin!) họ sẽ ngồi trên một đám mây trong bộ quần áo ngủ và học cách chơi đàn hạc?
Chúng tôi tin rằng chúng ta đến Trái Đất là để học, và rằng trên Trái Đất chúng ta có “hỏa ngục” của chính mình. Nơi khác, đối với chúng tôi, là nơi chúng ta đến khi rời khỏi cơ thể, nơi mà chúng ta có thể gặp các linh hồn khác cũng rời khỏi cơ thể. Đây không phải là thuyết thông linh. Thay vào đó là niềm tin rằng trong khi ngủ, hoặc sau khi chết, chúng ta tự do đi lang thang trong các cõi cao. Thuật ngữ riêng của chúng tôi đối với những khả năng cao hơn của các cõi này là “Vùng đất Ánh sáng Vàng”. Chúng tôi chắc chắn rằng khi chúng ta ở cõi cao, sau khi chết, hoặc trong khi ngủ, chúng ta có thể gặp được những người mà chúng ta yêu thương, bởi vì chúng ta hòa hợp với họ. Chúng ta không thể gặp những người mà chúng ta không thích, vì đó là trạng thái không hòa hợp, mà điều đó không thể tồn tại trên Vùng đất Ánh sáng Vàng.
Tất cả những điều này đã được chứng minh theo thời gian, và rất đáng tiếc là người phương Tây nghi ngờ và quan điểm duy vật đã ngăn chặn Khoa học được tìm hiểu, khám phá một cách thích đáng. Có quá nhiều điều đã bị chế giễu trong quá khứ, và sau đó đã được minh chứng sau nhiều năm trôi qua. Điện thoại, đài phát thanh, truyền hình, máy bay và nhiều thứ khác nữa.

Hàng ngày, trước khi bắt đầu buổi tập võ thuật, chúng tôi phải đọc thuộc lòng các bước của Con đường Trung Đạo, giáo lý cốt lõi của Phật Giáo, đó là:8
Chính kiến: Đó là quan điểm và ý kiến thoát khỏi ảo tưởng và cầu xin.
Chính tư duy: Theo đó con người phải có mục đích và quan điểm cao quý và đáng trọng.
Chính ngữ: Trong lời nói phải tử tế, dịu dàng và chân thật.
Chính nghiệp: Điều này làm cho con người thanh tịnh, dịu dàng và vị tha.
Chính mạng: Để tuân theo điều này, ta phải tránh làm tổn thương người khác và các loài vật, và phải tôn trọng quyền của họ như với chính mình vậy.
Chính tinh tiến: Phải có sự tự chủ, và tự rèn luyện không ngừng.
Chính niệm: có suy nghĩ đúng đắn và cố gắng làm những điều đúng đắn.
Chính định: Đây là niềm vui xuất phát từ thiền định về thực tại của cuộc sống và về bản chất của toàn thể mọi sự vật.
Nếu người nào trong chúng tôi vi phạm giáo lý chúng tôi sẽ bị nằm sấp ngang qua lối vào chính của tu viện, để tất cả những người ra vào bước qua người. Chúng tôi sẽ phải ở đó từ lúc bình minh tới tận đêm tối, không được cử động, và không được ăn uống. Đây được xem là một điều hổ thẹn vô cùng.
Thế là tôi đã trở thành một vị Lạt-ma. Tôi thuộc về thành phần ưu tú, thành phần của những bậc “Thượng nhân”! Nhưng điều này cũng có sự bất lợi đối với một đứa trẻ mười sáu tuổi như tôi, vì trước kia tôi phải giữ ba mươi hai điều giới luật của người tu sĩ, một con số mà tôi vẫn cho là đáng e ngại; nhưng khi trở thành một vị Lạt-ma, tôi phát hiện một cách kinh khủng rằng số giới luật bây giờ phải là hai trăm năm ba điều. Và nhất là ở tu viện Chakpori, một vị Lạt-ma chân chính phải giữ tròn bấy nhiêu điều giới luật đó, không bỏ sót một điều nào. 
---------------------------------ooOoo---------------------------------
Nếu độc giả muốn biết bằng cách nào người Tây Tạng có thể nhận ra một vị hóa thân, tôi xin trình bày sơ lược vài điểm như dưới đây: 
Khi một đứa trẻ có cách cư xử khác thường hoặc có những khả năng vượt mức bình thường, hay thường mô tả những ký ức đặc biệt nào đó mà người ta không thể giải thích, những bậc cha mẹ thường đến trình với vị Sư trưởng của một tu viện gần đó nhất. Vị này sẽ chỉ định một ủy ban có nhiệm vụ đến xem xét trường hợp đứa trẻ ấy. 
Trước hết, ủy ban này thực hiện một lá số chiêm tinh cho đứa trẻ, sau đó mới xem tướng mạo và tìm ấn chứng trên khắp thân mình nó. Thí dụ như đứa trẻ phải có những chỉ tay đặc biệt trên hai bàn tay, hoặc những dấu hiệu ấn chứng trên bả vai hay ở chân.
Nếu phát hiện đứa trẻ có những ấn chứng đó, người ta tìm cách truy ra tiền kiếp của nó. Có thể rằng các vị Lạt-ma sẽ nhìn ra được nó, như trong trường hợp của tôi, và khi đó người ta mới đặt nó trong một cuộc thử thách xem nó có nhận ra được những đồ vật dụng riêng của nó trong kiếp trước hay không. 
Những đồ vật này được đưa ra cùng với những món đồ tương tự, và đứa bé phải nhận biết đúng tất cả những món đồ (thường là chín món) riêng của nó trong kiếp trước. Cuộc thử thách này được thực hiện khi đứa trẻ mới lên ba tuổi. Người ta nghĩ rằng với tuổi đó, đứa trẻ hãy còn quá non dại để có thể bị ảnh hưởng bởi những gì cha mẹ nó có thể nói cho nó biết. Nếu có thể thử vào lúc nó còn nhỏ hơn nữa càng tốt. 
Cha mẹ đứa trẻ không được tham dự cuộc thử thách, và đứa bé phải chọn ra đủ chín món đồ vật trong số ba chục món khác. Chỉ chọn sai một vài món cũng bị loại. Nếu đứa trẻ chọn đúng tất cả không sai món nào, thì nó được nhìn nhận như một vị hóa thân, được nuôi dưỡng và giáo dục một cách đặc biệt. Khi nó lên bảy tuổi, người ta nói cho nó biết những lời tiên tri về cuộc đời tương lai của nó. Người ta cho rằng với tuổi đó, nó hoàn toàn có thể hiểu được ý nghĩa rõ ràng hay ẩn giấu của những lời tiên tri đó. Với kinh nghiệm riêng của tôi, tôi có thể quả quyết rằng điều đó là hoàn toàn đúng.
Vị lạt ma đang cung kính đứng cạnh tôi cực kỳ thông hiểu về vùng đất này khi ông giới thiệu các đặc điểm của nó. Đằng kia, phía bên phải là thác nước, là một nơi rất phù hợp để hái Noil-me-tangere mà nước ép của nó được sử dụng để loại bỏ vết chai và mụn cóc, và để làm giảm bệnh phù và bệnh vàng da. Ở trên đó còn có một cái hồ nhỏ mà người ta có thể thu lượm Polygorum Hydropiper, một loại rong mọc dưới nước có những nhánh rũ xuống và những bông hoa màu hồng. Chúng tôi dùng lá để chữa chứng đau khớp và cứu giúp dịch tả. Ở đây, chúng tôi thu lượm những loại thảo dược thông thường, còn những loại cây thuốc quý hiếm chỉ có vùng cao nguyên. Một số độc giả quan tâm đến thảo dược, vì vậy tôi đưa ra dưới đây chi tiết một vài loại thảo dược phố biến và cách bào chế chúng. Tôi không biết tên tiếng Anh của các loại thảo dược này nên sẽ dùng tên La tinh của chúng.
Tỏi (Allium sativum) là một chất khử trùng rất tốt, nó còn được dùng nhiều cho bệnh hen suyễn và các bệnh về hô hấp. Một chất khử trùng tốt khác nữa, chỉ được sử dụng với liều lượng nhỏ, là nhựa cây mật nhi lạp (Balsamodendron myrrha). Nó được chuyên dùng cho nướu răng và niêm mạc. Uống thảo dược này sẽ làm dịu đi trạng thái quá kích động.
Một loài cây cao lớn với những bông hoa màu kem có nước ép hoàn toàn ngăn được côn trùng đốt. Tên Latin của loài cây này là Becconia cordata (có họ với cây thuốc phiện). Có lẽ loài côn trùng biết điều đó, và nó là cái tên mà chúng phải sợ! Chúng tôi cũng dùng một loại thảo dược để làm giãn đồng tử của mắt. Cây ma hoàng (Ephedra sinica) có tác dụng tương tự như astropine, và nó cũng rất tốt cho trường hợp huyết áp thấp, ngoài ra nó còn là thảo dược trị bệnh hen suyễn hữu hiệu nhất ở Tây Tạng. Chúng tôi sử dụng cành và rễ phơi khô và tán thành bột.
Dịch tả thường rất khó chịu đối với bệnh nhân và bác sĩ bởi vì mùi của những vết loét trên da. Ligusticum levisticum khử được tất cả các mùi. Một lưu ý đặc biệt đối với phụ nữ: người Trung Quốc sử dụng những cánh hoa dâm bụt (Hibiscus rosa-sinensis) để nhuộm đen lông mày và giày da. Chúng tôi sử dụng kem được làm từ lá đun sôi để hạ nhiệt cơ thể những bệnh nhân bị sốt cao. Cũng đối với những người phụ nữ, Lilium tigrinum chữa chứng đau dây thần kinh buồng trứng rất tác dụng, trong khi lá cây Flacourtia indica (mận Ấn Độ) giúp phụ nữ vượt qua căn bệnh “đặc biệt” mất tự chủ hơn hẳn những người khác.
Trong họ Sumachs Rhus (cây thù du), cây vernicifera (cây keo) cung cấp cho người Trung Quốc và Nhật Bản để làm sơn mài “Trung Quốc”. Chúng tôi sử dụng để chữa bệnh tiểu đường, trong khi aromatica dùng trong trường hợp bị bệnh về da, đường tiết niệu, và viêm bàng quang. Chất làm se khác rất hiệu quả làm từ lá cây Arctestaphylos uva ursi để sử dụng trong trường hợp loét bàng quang. Người Trung Quốc thích Bignonia grandiflora, từ những bông hoa của nó họ tạo ra chất làm se để sử dụng chung cho mọi vết loét. Trong những năm sau đó, trong các trại giam, tôi thấy rằng Polygonum bistorta thực sự rất hữu ích trong trường hợp điều trị bệnh kiết lỵ màu, mà chúng tôi đã sử dụng ở Tây Tạng.
Những phụ nữ bất cẩn khi quan hệ thường dùng Polygonum erectum để làm co bóp dạ con. Một phương pháp rất hữu ích để phá thai an toàn. Đối với những người bị bỏng, chúng tôi có thể áp dụng cách “lên da non”. Siegesbeckia orientalis (thực vật họ cúc) là một loài cây cao, chừng hơn một mét hai với những bông hoa màu vàng. Nước ép của nó được dùng để xoa lên các vết thương và vết bỏng nhằm tái tạo ra một làn da mới theo cách tương tự như collodion. Khi uống, nước ép có tác dụng tương tự như hoa cúc La Mã. Chúng tôi thường cầm máu các vết thương bằng Piper augustifolium, dùng phía cuống của những chiếc lá hình trái tim là hiệu quả nhất cho mục đích này. Tất cả những thảo dược nêu ra ở đây đều là loại phổ biến, hầu hết những loại khác không có tên Latin, vì chúng không được thế giới phương Tây biết đến để gọi tên. Tôi đề cập đến chúng ở đây chỉ đơn thuần là để chỉ ra rằng chúng tôi có những kiến thức về thuốc làm từ thảo dược.
---------------------------------ooOoo---------------------------------
Chính trong thời kỳ này tôi được thụ huấn ráo riết về phương pháp xuất thần đi vào cảnh giới vô hình. Nhiều người không tin rằng sự xuất thần như thế có thể thực hiện được, nhưng thật ra thì tất cả mọi người đều có trải qua hiện tượng xuất thần đi vào cảnh giới vô hình trong giấc ngủ. Có điều khác là những người bình thường tuy có xuất thần trong giấc ngủ mà không hề hay biết, còn các hành giả có tu tập thì có thể chủ động xuất thần một cách tùy ý. 
Những phương pháp tu tập này là hoàn toàn xa lạ ở phương Tây, vì thế mà người ta thường hiểu biết rất ít về ý nghĩa thật sự của những giấc mộng. Mặc dù vậy, hầu hết các nền văn minh cổ ở khắp nơi trên thế giới đều biết hiện tượng xuất thần. Ngay tại Anh quốc, người ta cũng truyền tụng về những bà phù thủy đã từng nổi tiếng với nhiều quyền năng kỳ bí, trong đó có khả năng xuất thần. Tôi đã được dạy làm điều đó, vì thế mọi người đều có thể làm được.
Tôi cũng được học một môn học bí truyền khác là môn thần giao cách cảm. Nhiều người trước đây hoàn toàn không tin vào khả năng này của con người, nhưng thật đáng mừng là ngày nay người ta đã bắt đầu hiểu biết và nhìn nhận đúng hơn về khoa học này. 
Chúng tôi cũng thực hành cả khoa thôi miên. Chính tôi đã thực hiện nhiều cuộc giải phẫu quan trọng cho những bệnh nhân được đưa vào trạng thái thôi miên, như trong trường hợp cắt bỏ một chân chẳng hạn. Bệnh nhân không cảm thấy gì đau đớn gì cả và khi thức tỉnh thì thể trạng của họ còn khả quan hơn so với việc sử dụng thuốc mê theo phương pháp cổ điển. Hình như bên Anh quốc hiện nay người ta đã bắt đầu áp dụng khoa thôi miên trong một vài trường hợp giải phẫu. 
Tàng hình là nghệ thuật huyền bí khác nữa. Thật tốt là hiếm người có thể tàng hình. Nguyên tắc thì dễ: thực hành rất khó. Hãy nghĩ xem điều gì thu hút bạn. Tiếng ồn chăng? Chuyển động chớp nhoáng hay màu sắc lấp lánh? Những tiếng ồn và hành động chớp nhoáng thu hút người ta, làm cho họ chú ý tới chúng. Một người bất động không dễ bị nhìn thấy, cũng như vậy với những người không phải là một dạng hay một loại người “quen thuộc”. Chẳng hạng như người đưa thư, thường thì người ta sẽ nói rằng “không có ai ở đây cả, chẳng có ai hết”, nhưng thư của họ vẫn được mang đến. Bằng cách nào vậy, do một người vô hình chăng? Hoặc người là hình ảnh quen thuộc đến nỗi như không nhìn thấy hoặc không nhận thấy anh ta (một người cảnh sát chẳng hạn, gần như những người có lương tâm tội lỗi đều nhìn thấy!) Để đạt được trạng thái vô hình người ta phải tạm thời ngừng hoạt động, và tạm dừng phát sóng não! Nếu như bộ não được phép hoạt động (suy nghĩ chẳng hạn), thì khi đó bất kỳ người nào ở gần đều có thể nhận biết (nhìn thấy) bằng khả năng liên lạc bằng ngoại cảm và vì vậy trạng thái vô hình sẽ bị mất đi. Ở Tây Tạng có những người có thể trở nên tàng hình theo ý muốn, họ có khả năng che đậy được sóng não của họ. Có lẽ là may mắn khi chỉ có rất ít người có khả năng này.
Khinh thân có thể thực hiện được, và đôi khi chỉ là vì bài tập kỹ thuật liên quan. Nó chỉ là một phương pháp di chuyển vụng về để đi lanh quanh nhưng lại cần rất nhiều nỗ lực tập luyện. Những người thực sự lão luyện dùng cách di chuyển bằng thể vía, mà nó thực sự vô cùng đơn giản là ... chỉ cần có được sự chỉ dẫn đúng đắn. Tôi đã và có thể (và có khả năng) du hành bằng thể vía. Tôi không tập được phép tàng hình dù rất nỗ lực. Thật là một ân huệ nếu tôi có thể biến mất khi trót làm điều gì đó không hay ho gì cho lắm, nhưng tôi không có may mắn đó.
Tôi không có năng khiếu về âm nhạc, như đã nói trước đây. Tôi chỉ vừa mở miệng hát là đủ làm cho vị nhạc sư nổi trận lôi đình, quát tháo ầm ĩ. Nhưng cơn giận này còn chưa thấm vào đâu so với cơn náo loạn mà tôi gây ra một ngày nọ. Trong khi tập đánh chập chõa, một loại nhạc khí mà tôi cho là bất cứ ai cũng chơi được, nhưng không biết tôi vụng về thế nào lại vô tình tôi chộp ngay vào cái đầu trọc của một nhà sư ngồi gần bên!
Một cơn náo động và phản đối ầm ĩ đã diễn ra ngay sau đó. Và thế là người ta không ngần ngại mà thẳng thừng yêu cầu tôi hãy giới hạn những sinh hoạt của mình trong lãnh vực thần nhãn và y khoa mà thôi! 
Chúng tôi cũng thực hành rất nhiều về pháp môn yoga, một khoa học rất quan trọng có thể chuyển hóa con người đến một mức độ phi thường. Riêng tôi, tôi nghĩ rằng pháp mônYoga có lẽ không dành cho người phương Tây, trừ phi người ta đã đưa vào đó rất nhiều sự thay đổi thích hợp với lối sinh hoạt và tính chất của người phương Tây. 
Pháp môn này đã quen thuộc với người Tây Tạng từ nhiều thế kỷ. Họ đã quen tập luyện những tư thế Yoga từ thời thơ ấu. Vì thế, cả thân thể, tứ chi, gân xương, bắp thịt của họ đều đã được tập luyện thuần thục. Trái lại, người Tây phương khi thử bắt chước tập những tư thế đó sẽ gặp nhiều nguy hiểm, nhất là những người đã lớn tuổi. 
Một lần nữa, tôi muốn nhấn mạnh rằng cần có một người hướng dẫn bản địa, người đã được huấn luyện kỹ lưỡng về giải phẫu học để tránh những nguy hại có thể xảy ra.
Còn phép luyện hơi thở – hay khí công - cũng là một điều rất nguy hiểm. Tập thở theo một phương pháp nhất định, đó là bí quyết của nhiều hiện tượng lạ lùng. Nhưng, cần lặp lại một lần nữa rằng phép luyện khí công có thể có hại, nếu không nói là nguy hiểm đến tánh mạng, trừ phi hành giả được sự chỉ dẫn của một bậc danh sư có nhiều kinh nghiệm.
Nhiều du khách đến viếng Tây Tạng có viết truyện kể lại về những vị Lạt-ma có thuật phi hành (khác với khinh thân), họ có thể kiểm soát trọng lượng của thân thể họ và chạy nhanh hết tốc lực trong nhiều giờ, với hai chân rất ít khi chấm đất. 
Thuật phi hành đó đòi hỏi một công phu tập luyện lâu dài, và người phi hành phải tự đặt mình trong một trạng thái bán thôi miên. Buổi chiều là giờ tốt nhất để tập luyện vì hành giả có thể nhắm hướng sao mà chạy. Mặt đất phải bằng phẳng, không chướng ngại để khỏi làm gián đoạn trạng thái tập trung. Hành giả thường phải chạy trong trạng thái như một người mộng du (somnambule). 
Hành giả hình dung về đích đến của mình, giữ nó liên tục trước con mắt thứ ba của anh ta, và không ngừng trì tụng thần chú thích hợp. Anh ta sẽ chạy hàng giờ, và đạt đến đích không mệt mỏi. Phương pháp này chỉ có một lợi thế so với du hành bằng thể vía. Khi di chuyển bằng thể vía, hành giả di chyển trong trạng thái tinh thần và vì thế không thể di chuyển những đồ vật vật chất, chẳng hạn, không thể mang theo hành lý của người đó. Arjopa, như cách người ta gọi các “tay đua”, có thể mang theo hành lý thông thường của mình, nhưng ngược lại, hành giả bị chậm chạp và khó khăn vì sự bất lợi đó.
Nhờ kiểm soát sự hô hấp bằng phương pháp luyện khí công nên các hành giả Tây Tạng có thể ngồi mình trần trên những vùng núi non đầy băng tuyết ở độ cao đến năm hay sáu ngàn thước so với mực nước biển, nhưng vẫn cảm thấy nóng đến nỗi làm băng tuyết tan rã và bản thân họ toát mồ hôi như tắm. 
Bạn có bao giờ thử nhấc một vật nặng sau khi đã thở ra hết khí trời trong phổi? Bạn hãy thử xem rồi sẽ thấy rằng không thể làm được. Nhưng nếu bạn hít vào một hơi rất sâu và giữ lại hơi thở trong phổi, bạn sẽ có thể nhấc vật nặng ấy lên một cách dễ dàng hơn. Trong trường hợp bạn cảm thấy sợ sệt hay nóng giận, sau khi đã hít một hơi dài vào phổi, bạn hãy giữ lại hơi thở trong mười giây đồng hồ. Kế đó, bạn để cho không khí thoát ra từ từ. Nếu bạn lặp lại phép thở này ít nhất là ba lần, tim sẽ đập chậm hơn và bạn cảm thấy bình tĩnh lại. 
---------------------------------ooOoo---------------------------------
Trước khi nói đến cách chôn cất tử thi ở xứ Tây Tạng, thiết tưởng cũng cần nói qua vài chi tiết phụ thuộc về quan niệm của người Tây Tạng đối với sự chết. 
Thái độ của người Tây Tạng về sự chết hoàn toàn khác hẳn với người Tây phương. Họ quan niệm rằng thể xác con người chỉ là một “lớp vỏ” cái vỏ vật chất bên ngoài bao bọc một linh hồn bất tử bên trong. Vì thế, đối với họ thì một tử thi còn kém giá trị hơn một miếng giẻ rách. Trong trường hợp chết tự nhiên, nghĩa là không phải do tai nạn bất đắc kỳ tử, thì diễn biến sự chết theo quan niệm của người Tây Tạng là: Thể xác mệt mỏi, già cỗi, trở nên bất tiện cho linh hồn đến mức không thể tiếp tục học tập được nữa. Đó là lúc cần phải rời khỏi thể xác vật chất. Từ từ linh hồn rút khỏi và thể hiện ra ngoài cơ thể vật chất. Hình dạng linh hồn có nét ngoài chính xác như phiên bản vật chất, và có thể nhìn thấy được rõ ràng bằng thần nhãn. Vào thời điểm con người chết, sợi dây nối cơ thể vật chất với linh hồn (trong Kinh Thánh gọi là “sợi chỉ bạc”) tan dần và tách ra, và linh hồn trôi đi. Cái chết sau đó diễn ra. Nhưng cũng là sự sinh ra trong một cuộc đời mới, “sợi dây” giống như sợi dây rốn được cắt đứt để em bé mới sinh khởi đầu một cuộc sống độc lập. Vào thời điểm chết, ánh linh quang của sức sống tắt dần trên đỉnh đầu. Ánh linh quang này cũng có thể nhìn thấy được bằng thần nhãn, và trong Kinh Thánh được gọi là “Bát Vàng”. Không phải là một tín đồ Cơ Đốc tôi không quen thuộc với Kinh Thánh, nhưng tôi tin rằng có sự liên quan tới “Sợ rằng sợi chỉ bạc bị đứt, và Bát Vàng bị vỡ ra”.
Người Tây Tạng tin rằng phải sau một thời gian ba ngày thể xác mới thật sự chết hẳn, nghĩa là mọi hoạt động của cơ thể mới hoàn toàn chấm dứt, và thần thức, linh hồn, hay là chân nhân được hoàn toàn giải thoát khỏi lớp vỏ xác thịt vật chất. Lạt-ma giáo (Lamaisme) của xứ Tây Tạng cho rằng có thể phách được tạo thành trong suốt cuộc đời của thể xác. Thể phách này có thể trở thành ma. Có lẽ mọi người đều đã nhìn vào một ánh sáng mạnh, và khi quay đi hình như thấy ánh sáng vẫn còn. Chúng tôi cho rằng sự sống là điện, là trường sinh lực, và thể phách còn lại sau khi chết tương tự như ánh sáng mà người ta nhìn thấy sau khi nhìn vào một nguồn sáng mạnh mẽ, hay theo thuật ngữ về điện, nó giống như từ trường mạnh còn lại. Nếu cơ thể có lý do mạnh mẽ để nấn ná sự sống, thì sau đó thể phách mạnh mẽ có thể sẽ tạo thành một bóng ma và thường lui tới những nơi quen thuộc. Một người keo kiệt có thể có lòng quyến luyến tiền bạc đến nỗi tập trung tất cả khát vọng vào chúng. Khi chết có lẽ ý nghĩ cuối cùng của ông ta là lo sợ về số phận của những đồng tiền của mình, vì thế tại thời điểm ông ta chết, ông ta gia tăng thêm sức mạnh cho thể phách của mình. Người may mắn được nhận số tiền này có thể sẽ cảm thấy một có gì đó khó chịu trong thời gian ngắn vào buổi đêm. Ông ta có thể cảm thấy rằng “Ông già xấu tính lại bám theo tiền của mình đây”. Vâng, ông ta nói đúng, con ma của ông già xấu tính có lẽ đang ở rất gần mà tay (linh hồn) của ông ta không thể ôm chặt lấy tiền của mình.
Con người có ba thể căn bản: Thể xác thể cấu tạo bằng xương thịt, nhờ đó thần thức có thể dựa vào để hình thành một kiếp sống; thể dục vọng được cấu tạo bằng những thèm khát, ham muốn, tình cảm, nói chung là những dục vọng của con người; và thể linh hồn, tức là thể tâm linh, hay thần thức. Họ tin rằng người chết phải trải qua ba giai đoạn: Thể xác sẽ phải tiêu diệt; thể dục vọng  cũng sẽ tan rã và thể linh hồn hay thần thức đi theo con đường đưa đến cảnh giới tâm linh. Người Hy Lạp cổ cũng tin có thể phách, tin vào sự Hướng dẫn đến cái chết, và tin vào cảnh giới tâm linh. Ở Tây Tạng chúng tôi giúp đỡ người ta trước họ khi chết. Đạo sư không cần sự giúp đỡ đó, nhưng người dân bình thường, hoặc các tu sĩ (trappa), cần phải được hướng dẫn trong suốt chặng đường. Có thể độc giả sẽ quan tâm đến vấn đề này.
Một hôm, vị Lạt-ma phụ trách nghi lễ cầu siêu cho người chết mời tôi đến và nói: ‘Nay đã đến lúc sư huynh cần học hỏi những phương pháp thực tế về sự giải thoát của linh hồn. Xin mời sư huynh đi theo tôi.’ 
Sau khi đã đi qua những hành lang dài và xuống những cầu thang trơn trợt, chúng tôi đến chỗ cư xá của các vị y sĩ. Tại đây, trong một phòng bệnh, một vị sư già đang nằm hấp hối. Một cơn bệnh đã làm cho ông ta yếu sức nhiều, sinh lực của ông ta đã gần cạn và tôi nhận thấy màu sắc trên hào quang ông ta đã phai mờ. Dầu sao, ông ta cũng phải gượng sống cho đến khi không còn chút sinh lực nào. Vị Lạt-ma đi cùng với tôi nhẹ nhàng nắm lấy hai bàn tay ông ta và nói: ‘Sư ông đã gần được giải thoát khỏi những dày vò của thể xác. Sư ông hãy chú ý nghe những lời tôi nói đây, để có thể được nhẹ bước siêu thăng. Chân sư ông đã lạnh. Cuộc đời sư ông đã tiến gần đến chỗ kết thúc. Cầu cho linh hồn sư ông được bình an, vì sư ông không có gì phải sợ sệt. Sinh lực đã rút ra khỏi hai chân sư ông, và đôi mắt sư ông đã mờ. Thân hình sư ông đã lạnh, sự sống đã rút lui dần và sắp tắt hẳn. Sư ông hỡi, cầu cho linh hồn sư ông được bình an, vì sự giải thoát ra khỏi cuộc đời thế tục để bước qua cõi tinh thần vốn không có gì đáng sợ. Những bóng tối của cõi u minh vô tận đã lởn vởn trước mắt sư ông và hơi thở của sư ông đã tắt nghẽn trong cuống họng. Nay đã đến lúc mà thần thức sư ông sẽ được tự do trong cảnh giới tâm linh. Cầu cho sư ông được bình an. Thời điểm giải thoát của sư ông đã đến...’ 
Vị Lạt-ma vừa nói luôn miệng, vừa lấy bàn tay vuốt nhẹ sau gáy của người hấp hối, từ hai vai lên đến đỉnh đầu, theo một phương pháp đã được chứng nghiệm là có thể giúp đưa linh hồn ra khỏi xác một cách êm ái nhẹ nhàng, không đau đớn. 
Tất cả những cạm bẫy trên đường đi qua cảnh giới tâm linh được nói cho người chết biết trước, cùng với phương cách để tránh những cạm bẫy đó. Lộ trình đã được vạch sẵn một cách chính xác, do các vị Lạt-ma đã từng thực hành pháp tu luyện xuất thần ngay khi đang sống. Các vị ấy có thể dùng thần giao cách cảm để tiếp tục giao tiếp và hướng dẫn thần thức người chết. 
Vị Lạt-ma nói tiếp: ‘Sư ông không còn nhìn thấy gì nữa, và hơi thở của sư ông đã ngưng hẳn. Toàn thân sư ông đã lạnh và những tiếng động ồn ào của thế gian không còn vọng vào tai sư ông được nữa. Sư ông hãy bình an, vì cái chết nay đã đến với sư ông. Sư ông hãy noi theo con đường mà chúng tôi đã vạch sẵn, và sư ông sẽ tìm thấy sự yên tĩnh phúc lạc ở cảnh giới bên kia.’ 
Vị Lạt-ma vẫn tiếp tục vuốt nhẹ cái gáy và hai vai người chết. Vầng hào quang của ông lão trở nên mờ dần, và sau cùng thì biến mất dạng. Khi đó, theo một nghi lễ cổ truyền tự muôn đời, vị Lạt-ma thốt ra một tiếng kêu ngắn và to để cho linh hồn còn đang bám víu lấy thể xác có thể được giải thoát hoàn toàn. Ở phía trên cái xác thân bất động, nguồn sinh lực tập trung lại thành một khối giống như một đám mây khói vần vũ với muôn nghìn vòng xoáy, trước khi tượng hình giống như cái thể xác mà nó vẫn được kết nối bởi sợi chỉ bạc. Sợi dây mỏng dần, và giống như một em bé được sinh ra khi sợi dây rốn bị cắt đứt, vị sư già sinh vào cuộc đời tiếp sau. Sợi dây mỏng manh dần, giống như sợi chỉ mảnh dần, rồi tách rời ra.
Vào lúc cuối cùng, đám mây sinh lực trở nên mỏng manh và từ từ biến mất, như một đám mây lướt nhẹ trên không gian, hay một đám khói hương tản mác trong đền thờ. 
Vị Lạt-ma vẫn tiếp tục những chỉ dẫn cho thần thức người chết bằng thần giao cách cảm và dìu dắt thần thức trong giai đoạn đầu tiên của cuộc phiêu lưu sang cảnh giới vô hình. ‘Sư ông đã chết rồi. Ở đây không còn gì cho sư ông nữa cả. Những sợi dây trói buộc của xác thịt đã bị cắt đứt. Sư ông hiện đang ở trong cảnh giới tâm linh. Sư ông hãy tiếp tục đi theo con đường của mình, còn chúng tôi sẽ ở lại trần gian. Sư ông hãy noi theo con đường đã vạch. Hãy từ giã cõi thế gian mộng ảo này và bước vào cảnh giới tinh thần. Sư ông đã chết. Hãy tiếp tục tiến bước trên con đường đã vạch sẵn.’ 
Khói hương trầm bốc lên thành những vòng tròn; mùi hương thơm ngát đem lại sự thanh thản cho bầu không khí phiền muộn. Từ đằng xa vọng lại tiếng trống nghe văng vẳng. Từ trên nóc tu viện rất cao, tiếng kèn trầm hùng phát ra một âm thanh vang dội khắp bốn phương. Theo các hành lang, tất cả những tiếng động ồn ào của cuộc sống hằng ngày vang dội đến tai chúng tôi, chen lẫn với tiếng giày ủng của các nhà sư và tiếng kêu của những con bò yak. 
Gian phòng nhỏ của chúng tôi lúc ấy như đắm chìm trong im lặng. Một cái im lặng của nhà mồ. Trong cái bối cảnh im lặng đó, những chỉ dẫn bằng thần giao cách cảm của vị Lạt-ma là những tiếng thổn thức phớt qua cái yên tịnh của gian phòng, cũng như ngọn gió nhẹ thoáng qua mặt hồ yên lặng. 
Sự chết! Lại có thêm một ông lão vừa tiếp bước trong cái chu kỳ bất tận của vòng luân hồi sinh tử! Có lẽ sau khi đã trải qua những bài học kinh nghiệm của một kiếp người, ông đã tiến được phần nào trên con đường tâm linh, nhưng vẫn còn phải tiếp tục với những công phu tu tập trường kỳ bất tận cho đến khi đạt tới quả vị Phật. 
Chúng tôi đặt tử thi ngồi theo tư thế hoa sen và cho gọi những âm công cùng với các vị Lạt-ma khác để tiếp tục sự hướng dẫn bằng thần giao cách cảm cho thần thức người chết. Công việc này kéo dài suốt ba ngày ba đêm. Trong thời gian đó, những vị Lạt-ma thay phiên nhau túc trực bên cạnh xác chết. 
Sáng ngày thứ tư, một âm công đến để lấy xác. Những âm công là một giai cấp sống trong khu biệt lập ở ngã tư các đường Ling-khor và Dechhen Dzong. Khi ông ta đến nơi, các vị Lạt-ma ngưng việc dẫn dắt thần thức người chết và ông ta nhận lãnh tử thi. 
---------------------------------ooOoo---------------------------------
Một buổi chiều, vị Sư trưởng cho gọi tôi và nói: ‘Một vị hóa thân sắp sửa bỏ xác. Người đang ở tại tu viện Sera. Ta muốn con hãy đến xem cách họ ướp xác như thế nào.’ Như vậy, một lần nữa tôi lại phải chịu đựng một cuộc hành trình khó nhọc trên lưng ngựa để đến tận Sera. Khi tôi đến tu viện, người ta đưa tôi đến tận phòng của vị sư trưởng đã già. Những màu sắc trên hào quang của ông đã sắp tắt. 
Một giờ sau, ông từ giã thế giới vật chất để bước qua cảnh giới tinh thần. Là một vị sư trưởng và có học vấn sâu rộng, ông không cần đến sự giúp đỡ khi đi vào cảnh giới tâm linh, cũng không cần phải chờ đợi ba ngày như thường lệ. Thi hài ông ta chỉ cần đặt ngồi theo tư thế kiết-già trong một đêm, trong khi các vị Lạt-ma chia nhau túc trực bên cạnh. 
Qua hôm sau, vào lúc tảng sáng, một cuộc diễu hành long trọng đi qua thánh thất của tu viện, vào tận chính điện và đi xuống những đường hầm bí mật xuyên qua một cánh cửa ít khi dùng đến. 
Trước mặt tôi, hai vị Lạt-ma khiêng tử thi đặt trên một cái cáng. Tử thi vẫn để ngồi theo tư thế hoa sen. Sau lưng tôi, các nhà sư hát thánh ca với một giọng trầm hùng; xen lẫn với âm thanh trong vắt của một cái chuông bạc. Chúng tôi đeo những mảnh vải yểm tâm vàng bên ngoài những áo tràng màu đỏ. Thân hình chúng tôi tạo thành những cái bóng đen lung lay và nhảy múa trên tường. Những bóng đen này được phóng đại quá cỡ và méo xệch đi bởi những ánh đèn bơ và ánh đuốc lập lòe. 
Chuyến đi xuống đường hầm kéo dài rất lâu. Sau cùng, cách chừng hai chục thước bề sâu dưới mặt đất, chúng tôi đến trước một cánh cửa bằng đá khóa chặt. Sau khi mở khóa, chúng tôi bước vào một gian phòng lạnh như băng. Các nhà sư đặt tử thi xuống đất một cách vô cùng cẩn thận và rút lui, chỉ còn lại tôi và ba vị Lạt-ma. 
Hàng trăm ngọn đèn bơ được thắp lên, tỏa ra một ánh sáng vàng đục và xấu. Tử thi được cởi quần áo ra và tắm rửa sạch sẽ. Từ những lỗ trống tự nhiên trên thân thể người chết, người ta moi ra hết những bộ phận nội tạng rồi cho tất cả vào trong những cái vại và đóng chặt. 
Kế đó, bên trong thân mình được rửa sạch kỹ lưỡng, để cho thật khô ráo và cho đầy vào trong đó một thứ nhựa đặc biệt. Thứ nhựa này sẽ đông đặc lại, nhờ đó tử thi mới giữ được vẻ tự nhiên như khi còn sống. Đợi khi chất nhựa đã trở nên khô và cứng lại, người ta mới nhồi phía trong với đồ tơ lụa, và luôn lưu ý giữ cho không mất đi dáng vẻ tự nhiên. Sau khi dùng tơ lụa nhồi vào thật cứng, người ta lại đổ thêm chất nhựa một lần nữa. 
Kế đó, mặt ngoài xác chết được phết một lớp nhựa cùng loại và để cho thật khô. Rồi trước khi dán lên tử thi những băng lụa rất nhuyễn, người ta phết lên mặt ngoài đã cứng một lớp nước thuốc đặc biệt để sau này có thể gỡ các băng lụa ra một cách dễ dàng. 
Khi tử thi đã nhồi đủ cứng, người ta đổ thêm chất nhựa, nhưng lần này là một loại khác, và tử thi đã sẵn sàng bước qua giai đoạn thứ hai của công việc ướp xác. 
Trong một ngày và một đêm, tử thi được để yên tại chỗ để cho hoàn toàn khô ráo. Khi người ta trở lại gian phòng thì nó đã cứng lại. Khi đó, tử thi mới được chở đi một cách trịnh trọng xuống phòng ướp xác. 
Phòng ướp xác này rất nhỏ, nằm phía dưới phòng thứ nhất. Thật ra thì đây là một cái hỏa lò được xây cất theo một cách riêng để cho những ngọn lửa và nhiệt độ có thể luân chuyển chung quanh các vách tường, nhờ đó luôn giữ cho gian phòng ở dưới một nhiệt độ cao và đều khắp. 
Mặt nền của phòng ướp xác được đắp lên một thứ bột đặc biệt, làm thành một lớp rất dày. Tử thi được đặt ngồi ở giữa. Phía dưới, các nhà sư chuẩn bị việc đốt lửa. Người ta nhồi vào lò một tạp chất gồm có muối (một thứ muối đặc biệt chế tạo tại một tỉnh ở Tây Tạng), các loại dược thảo và khoáng chất. Khi gian phòng đã được nhồi đầy thứ tạp chất nói trên từ mặt đất lên đến trần, chúng tôi bước ra ngoài hành lang, cửa được đóng chặt lại và niêm phong bằng con dấu triện của tu viện. 
Các nhà sư được lệnh đốt lửa. Trong giây lát, người ta nghe tiếng củi lửa cháy tí tách và khi ngọn lửa đã lên cao, có tiếng bơ sôi sục. Quả thật, các nồi hơi lớn được đun bằng phân bò yak và bơ phế thải. Suốt một tuần lễ, lửa cháy dữ dội trong lò và những luồng hơi nóng tràn vào trong những khe vách tường rỗng ruột của phòng ướp xác. 
Cuối ngày thứ bảy, người ta ngưng đốt thêm lửa và ngọn lửa tàn lụi dần dần. Nhiệt độ xuống thấp làm cho các vách tường đá phát ra tiếng kêu như rên rỉ. Khi hành lang đã nguội lại để có thể đi qua, người ta còn phải đợi thêm ba ngày nữa trước khi nhiệt độ trong phòng trở lại bình thường. 
Mười một ngày sau khi niêm phong, gian phòng lại được mở khóa và cửa phòng lại mở. Các nhà sư thay phiên nhau cạo sạch chất bột đã khô cứng. Họ cạo bằng tay chứ không dùng khí cụ để khỏi làm trầy xước xác ướp. 
Sau hai ngày liên tục làm việc, họ đã gỡ xong những tảng muối và tạp chất khô giòn. Sau cùng, gian phòng đã trống trơn, chỉ còn lại cái tử thi ngồi ở chính giữa theo tư thế hoa sen. 
Người ta cẩn thận nâng cái xác và đưa trở lên gian phòng thứ nhất. Tại đây nó được quan sát dễ dàng hơn dưới ánh sáng các ngọn đèn bơ. Những băng lụa được gỡ ra từng băng một, cho đến khi cái xác hoàn toàn trơ trọi. Việc ướp xác đã thành công hoàn toàn. Tử thi vẫn giữ nguyên vẹn hình dáng như trước, chỉ có màu sắc là trở nên sậm hơn nhiều. Hình dáng tử thi hoàn toàn tự nhiên như người sống, dường như có thể tỉnh dậy bất cứ lúc nào. 
Lại một lần nữa, tử thi được phết thêm một lớp nhựa, và các nhà sư chuyên nghề kim hoàn mới bắt đầu làm việc. 
Thật là một kỹ thuật tinh xảo vô cùng! Tôi chưa từng thấy ai khéo léo như những nhà sư chuyên nghề kim hoàn này. Họ có thể đắp một lớp vàng lên một cái xác chết! Họ làm việc thận trọng và chậm rãi, phết lên tử thi từng lớp vàng tinh lọc nhất và mịn màng tế nhuyễn nhất. Cho dù là ở đâu, số vàng này cũng đáng giá cả một gia tài! Nhưng đối với người Tây Tạng chúng tôi, nó chỉ có tầm mức quan trọng của một loại kim khí linh thiêng, một thứ kim khí mà tính chất bất hư hoại tượng trưng cho phần tâm linh của con người. 
Những nhà sư chuyên nghề kim hoàn làm việc với một nghệ thuật rất tinh vi, và lưu ý kỹ từng chi tiết nhỏ nhặt. Khi hoàn thành công việc, họ tạo thành một pho tượng mạ vàng với dáng vẻ tự nhiên như người sống, không thiếu sót dù chỉ là một nếp nhăn. Điều này lại càng cho thấy rõ tài nghệ tinh xảo của họ. 
Thân hình nặng trĩu bởi số vàng đắp lên đó được chở đến phòng các đấng hóa thân và đặt ngồi trên một chiếc ngai bằng vàng, giống như những xác ướp đã được đặt tại đây từ trước. Trong số đó, có vài xác ướp đã có từ lúc bắt đầu lịch sử thần thoại. 
Những xác ướp này ngồi sắp hàng ví như những vị thẩm phán nghiêm minh, quan sát xuyên qua những mí mắt hé mở những tội lỗi sa đọa của thời đại hiện nay. 
Chúng tôi chỉ nói chuyện thì thầm và đi nhón gót chân một cách rón rén, không dám quấy rầy những người chết đang ngồi đó. Tôi cảm thấy sức hấp dẫn mãnh liệt của một trong các pho tượng vàng. Nó gây cho tôi một sự ám ảnh lạ lùng. Tôi có cảm giác pho tượng ấy vừa nhìn tôi vừa mỉm cười, dường như nó biết rõ tất cả. 
---------------------------------ooOoo---------------------------------
Chúng tôi đi qua những dãy hành lang mà tôi đã biết trong cuộc thám hiểm trước đây. Sau cùng, chúng tôi đến chỗ cuối một đường hầm có một tảng đá khép chặt. Một cánh cửa bí mật bằng đá lớn xoay vòng trước mặt chúng tôi và đưa chúng tôi vào một đường hầm khác rất hẹp và tối tăm, nơi đó xông lên một mùi mốc meo lẫn lộn với mùi gia vị và mùi hương trầm. 
Đi xa hơn độ vài thước, chúng tôi bị ngăn lại bởi một cánh cửa thếp vàng rất dày và chắc; cánh cửa này mở ra từ từ với những tiếng khua rít vang dội. Những ngọn đuốc được dập tắt và thay thế bằng những ngọn đèn bơ. Chúng tôi bước vào một ngôi đền ở dưới hầm, được khoét sâu trong núi đá từ nhiều thế kỷ về trước bởi những cuộc địa chấn do núi lửa gây ra. Ngày xưa, những giòng nham thạch từ trong lòng đất đã chảy qua những dãy hành lang này trước khi đến miệng núi lửa. Tôi thầm nghĩ: ‘Bây giờ thì là những con người yếu hèn tội lỗi đi ngang qua những con đường này, và họ tự nghĩ rằng mình là thần thánh.’ 
Nhưng trong giờ phút này, tôi cần phải tập trung tư tưởng đến cuộc lễ, vì chúng tôi đã đến ngôi đền Minh Triết Huyền Bí. 
Ngoài ba vị Sư trưởng dẫn đường cho tôi, còn lại những người đi theo hộ tống đã biến mất dạng trong bóng tối, như những ảo ảnh của một giấc mơ. Chỉ còn tôi ở lại với ba vị hiền giả lão thành, thân hình già nua với năm tàn tháng lụn và bình tĩnh đợi chờ ngày khuất núi. 
Ba ông lão này có lẽ là ba vị đạo sư cao cả nhất, sẽ đặt tôi dưới một thử thách cuối cùng trong cuộc lễ điểm đạo. Mỗi vị đều cầm nơi tay mặt một ngọn đèn bơ, và tay trái cầm một cây nhang to lớn cháy nghi ngút. Tiết trời rất lạnh lẽo, một cơn lạnh rất lạ lùng, không hề có trên mặt đất. Cơn im lặng rất thâm trầm, và những tiếng động rất hiếm đến từ bên ngoài càng làm cho sự im lặng ấy trở nên lạ lùng hơn nữa. Những đôi giày ủng lót bằng nỉ của chúng tôi không gây một tiếng động nào. Chúng tôi lướt đi như những cái bóng. Tôi nghe tiếng suỵt soạt êm dịu từ những vạt áo tràng bằng nhung màu vàng nghệ của các Sư trưởng. 
Tôi vô cùng kinh ngạc mà cảm thấy trên da thịt một luồng điện chạy lăn tăn như kiến bò, và có hiện tượng phóng điện toát ra từ thân mình tôi. Hai bàn tay tôi chiếu sáng dường như phóng hào quang. Tôi nhận thấy các vị Sư trưởng cũng có hai bàn tay chiếu sáng ngời giống y như tôi. Khí trời khô ráo và sự cọ xát bởi những áo tràng của chúng tôi đã gây nên một sự tích tụ của tĩnh điện. Một trong các vị Sư trưởng bèn đưa cho tôi một chiếc đũa vàng và thì thầm: ‘Con hãy cầm chiếc đũa vàng này nơi bàn tay trái và vừa chống lên vách tường vừa đi. Như vậy, những cảm giác khó chịu sẽ biến mất.’ 
Tôi làm y theo lời. Sau một phát phóng điện mãnh liệt nó làm cho tôi giật nảy mình, mọi việc đều êm đẹp. Những ngọn đèn bơ đã lần lượt được thắp sáng bởi những bàn tay vô hình. Khi tôi nhìn rõ hơn dưới ngọn đèn bơ leo lét, tôi thấy những pho tượng khổng lồ mạ vàng, trong đó có vài pho tượng chôn ngập đến nửa thân mình dưới một đống ngọc quý và châu báu. 
Một bức tượng Phật xuất hiện từ trong bóng tối. Bức tượng ấy to lớn đến nỗi ánh sáng không vượt lên khỏi phần thắt lưng. Những hình tượng khác cũng ẩn hiện chập chờn trong bóng tối. Đó là các vị thần, tượng trưng cho những dục vọng và thử thách mà con người phải vượt qua trước khi hiển lộ được chân ngã. 
Chúng tôi đến gần một vách tường, trên đó có vẽ hình một bánh xe luân hồi đường kính khoảng năm thước. Dưới ánh sáng lập lòe, nó dường như xoay tít đến nỗi làm chúng tôi chóng mặt. 
Chúng tôi vẫn tiến bước; tôi có cảm giác là sắp bị ngăn chặn bởi một vách đá. Nhưng vị Sư trưởng đi trước tôi đã biến mất dạng sau khi đi lọt qua một cánh cửa bí mật, ẩn giấu rất khéo léo không ai có thể biết được. Cánh cửa này đưa vào một đường hầm đi xuống dốc, đường rất hẹp và quanh co. Tại đây, ánh sáng mập mờ của các ngọn đèn bơ làm cho bóng tối càng thêm âm u huyền bí. 
Chúng tôi đi với những bước ngập ngừng do dự, thỉnh thoảng lại sẩy chân, và trượt ngã. Bầu không khí thật nặng nề khó thở dường như toàn khối địa cầu đang đè nặng lên vai chúng tôi. Tôi có cảm giác như đi lọt vào tận trong ruột của trái đất. 
Sau cùng, qua một khúc quanh, một động đá mở rộng trước mắt chúng tôi, chiếu sáng ngời những ánh vàng. Những mạch vàng xen kẽ với những lớp đá tảng trên vách. Trên vòm đá cao vút trên đỉnh đầu chúng tôi, những mạch vàng này phản chiếu ánh sáng lập lòe của những ngọn đèn bơ, chiếu lấp lánh như ánh sao chớp trên nền trời trong một đêm không trăng. 
Ở chính giữa động đá có một ngôi nhà màu đen và sáng ngời, dường như làm bằng gỗ mun. Trên tường có những hình biểu tượng và sơ đồ lạ lùng giống như những hình vẽ mà tôi đã nhìn thấy trên vách đá dưới hầm khi tôi thám hiểm cái hồ nước dưới lòng đất trước đây. 
Chúng tôi bước vào nhà qua một cửa lớn và cao. Bên trong, tôi nhìn thấy ba cỗ quan tài rất lớn bằng đá đen có chạm hình và khắc những giòng chữ lạ kỳ. Ba cỗ quan tài đều không đậy nắp. Nhìn vào bên trong tôi bèn muốn đứt hơi thở và thình lình tôi cảm thấy rất yếu. Vị tiên chỉ cao niên nhất trong ba vị Sư trưởng liền nói với tôi: ‘Này con, con hãy nhìn xem. Các vị này đã từng sống như những đấng thần minh ở xứ ta vào một thời kỳ mà xứ này còn là đồng bằng, chưa có núi non gì cả. Các vị ấy đã từng rong ruổi trên đất liền trong khi những vùng biển cả còn đập sóng ở ngoài khơi của xứ Tây Tạng, và khi những bầu tinh tú khác còn chiếu sáng trên nền trời của chúng ta. Con hãy nhìn xem cho kỹ, vì chỉ có những bậc đạo đồ mới thấy được mà thôi.’ 
Tôi làm y theo lời, và tôi liền thấy vừa thích thú vừa kinh ngạc. Ba thể xác to lớn, toàn thân đều mạ vàng, đang nằm trong ba cỗ quan tài trước mắt tôi. Hai người nam và một người nữ. Mỗi nét trên thân hình của họ đều được giữ gìn nguyên vẹn dưới lớp vàng phủ bên ngoài. Nhưng họ là những người khổng lồ! Người nữ hẳn phải cao hơn ba thước tây, và người lớn nhất trong hai người nam chắc chắn cũng không dưới năm thước! Đầu của họ rất lớn, hơi nhọn trên đỉnh đầu, quai hàm hẹp, miệng hơi nhỏ và cặp môi mỏng. Sống mũi dài và thanh, đôi mắt ngay thẳng và thụt vào sâu. Gương mặt họ vẫn tươi như người sống. Họ có vẻ như những người đang nằm ngủ. 
Chúng tôi nhón gót đi rón rén như sợ rằng sẽ làm cho họ thức giấc. Tôi nhìn xem cái nắp của một cỗ quan tài; trên đó có khắc một bản đồ thiên tượng với những tinh tú rất lạ lùng. Nhờ có học về khoa chiêm tinh, tôi đã từng quen thuộc với vị trí các bầu tinh tú. Nhưng bản đồ thiên tượng này hoàn toàn khác hẳn. Vị tiên chỉ quay lại phía tôi và nói: ‘Con sẽ trở nên một bậc đạo đồ. Con sẽ nhìn thấy quá khứ và con cũng sẽ biết cả tương lai. Nhưng cuộc thử thách bây giờ sẽ rất cam go, gian khổ. Nhiều người không sống được sau cơn thử thách này và nhiều người khác đã thất bại, không ai có thể rời khỏi chốn này một cách an toàn, trừ phi đã vượt qua được sự thử thách. Con đã chuẩn bị sẵn sàng chưa, và con có bằng lòng tham dự cuộc thử thách này chăng?’ 
Tôi đáp rằng tôi đã sẵn sàng và ba vị Sư trưởng liền đưa tôi đến một phiến đá đặt giữa hai cỗ quan tài. Theo chỉ dẫn của các vị Sư trưởng, tôi ngồi lên phiến đá trong tư thế hoa sen, hai chân xếp bằng, lưng thẳng, và lòng bàn tay lật ngửa. 
Những cây nhang to lớn cháy nghi ngút được cắm lên mỗi chiếc quan tài ở hai bên và trên phiến đá chỗ tôi ngồi. Các vị Sư trưởng lần lượt rút lui và biến mất dạng, mỗi vị cầm một ngọn đèn bơ soi đường. Họ đóng cánh cửa lớn, chỉ còn lại một mình tôi với những xác ướp các vị tiền bối của một thế hệ đã qua. 
Thời gian trôi qua. Tôi định tâm ngồi thiền. Ngọn đèn của tôi đem theo đã cạn bơ và vụt tắt. Trong một lúc, tôi nhìn thấy cái bấc đèn còn ngún đốm lửa tàn, và ngửi thấy một mùi bấc cháy, rồi kế đó mọi sự đều biến mất, và không còn gì nữa. 
Tôi nằm dài trên phiến đá và bắt đầu hô hấp theo một phép khí công đặc biệt mà tôi đã thụ huấn trong nhiều năm. Bầu không khí im lặng, bóng tối dày đặc chung quanh đè nặng lên tôi. Quả thật đó là cái im lặng của nhà mồ. 
Thình lình, thân mình tôi cứng đơ và trở nên bất động như một cái xác chết. Tay chân tôi tê liệt và lạnh dần. Tôi có cảm giác như đang bước vào cõi chết, chết trong ngôi mộ cổ này, ở một bề sâu trên một trăm thước dưới lòng đất và không có ánh sáng mặt trời. 
Một cơn rung chuyển mạnh diễn ra bên trong thân thể tôi và làm cho toàn thân tôi rũ liệt. Một ánh sáng màu xanh lợt từ từ xuất hiện trong ngôi mộ như một ánh trăng mới mọc trên một truông núi. Tôi cảm thấy tôi hơi cử động, thân tôi nhẹ bổng bay lên rồi rơi xuống. Trong một lúc, tôi tưởng rằng tôi đang ngồi trên một con diều gỗ lượn trên không gian. 
Sự thật hiện ra trong trí tôi, tôi đang bay phất phơ phía trên cái thể xác bằng xương thịt của tôi. Tuy không có gió, nhưng tôi bị lôi cuốn đi như một đám khói. Ở phía trên đầu, tôi thấy một vầng ánh sáng giống như một cái hoa màu vàng. Từ chính giữa thân mình tôi, tỏa ra một sợi dây màu xanh bạc, chiếu lóng lánh và tràn đầy nhựa sống. Tôi nhìn xem cái thể xác vô tri bất động của tôi, nó chỉ là một cái xác chết như mọi xác chết khác. 
Dần dần, tôi phân biệt được những điểm khác biệt nhỏ giữa cái xác của tôi với xác ướp của những người khổng lồ nằm gần bên. Đó là một điều rất lý thú. Tôi nghĩ đến những sự tự hào lố bịch của nhân loại đương thời, vì làm sao người ta có thể dùng khoa học vật lý để giải thích sự hiện diện của những xác ướp khổng lồ này? 
Tôi còn đang suy nghĩ... thì thình lình tôi trở nên ý thức được một cái gì nó làm đảo lộn dòng tư tưởng của tôi. Dường như lúc ấy tôi không còn cô độc một mình. Những mẩu chuyện vụn vặt vọng đến tai tôi, những tư tưởng đứt đoạn không thốt ra lời. Những hình ảnh tán loạn ẩn hiện chập chờn xuyên qua tầm nhãn quang siêu linh của tôi. 
Tôi có cảm giác nghe thấy từ xa xa ngân lên một tiếng chuông lớn với một giọng trầm. Tiếng chuông ấy đến gần rất mau cho đến khi nó dường như nổ ra trong đầu tôi. Đó là những giọt ánh sáng muôn màu nhỏ li ti và những tia chớp với những màu sắc lạ lùng chưa từng thấy, hiện ra trước mắt tôi. Thần thức của tôi phất phơ và đưa đẩy như một chiếc lá rụng bị cuốn đi trong cơn giông bão. Tâm thức tôi bị giày vò, cấu xé một cách đau đớn phũ phàng bởi một con trốt xoay tít với muôn nghìn đốm lửa. 
Tôi cảm thấy bị bỏ rơi, hoàn toàn cô độc, như một mảnh bèo nhỏ nhoi trôi dạt giữa một vũ trụ mênh mông bấp bênh vô định. Một đám sương mù đen kịt bao phủ lấy tôi và đem đến cho tôi một niềm yên tĩnh lạ lùng, không thuộc về những cảm giác của trần gian. 
Những bóng tối dày đặc bao phủ tôi dần dần tiêu tan. Tôi nghe tiếng gầm thét của biển cả và tiếng rít lên của những viên đá sạn bị sóng nhồi trên bãi cát. Tôi thở một bầu không khí đầy hơi muối và tôi ngửi thấy mùi rong biển. Cảnh vật rất quen thuộc đối với tôi. Tôi nằm dài một cách uể oải trên bãi cát được sưởi ấm bởi ánh mặt trời, và ngắm nhìn những tàn cây thốt nốt. 
Nhưng có một phần trong tôi lên tiếng phản đối: Tôi chưa hề nhìn thấy biển cả bao giờ, và thậm chí không hề biết có loại cây thốt nốt! Rồi một tràng dài những giọng nói và tiếng cười vọng ra từ một lùm cây. Những giọng nói càng đến gần, và xuất hiện một nhóm người da sậm như đồng đỏ đang nô đùa vui vẻ. Những người khổng lồ! Tất cả đều cùng vóc dáng như nhau! Tôi nhìn lại thân mình, và thấy tôi cũng vậy, tôi cũng là một người khổng lồ. 
Những ấn tượng tiếp diễn theo nhau trong trí tôi, đó là ngày xưa, hàng bao nhiêu nghìn muôn năm trước, khi quả địa cầu ở gần mặt trời hơn bây giờ, nhưng sự luân chuyển của nó lại đi theo một hướng ngược chiều. Ngày ngắn hơn và nóng hơn bây giờ. Những nền văn minh vĩ đại đã được xây dựng và nhân loại thời ấy thông thái hơn người đời nay. 
Khi ấy, từ ngoài không gian bỗng nhiên có một hành tinh chuyển động bất thường và chạm vào trái đất, làm cho trái đất bị dội ngược, bật ra khỏi quĩ đạo của nó, và xoay ngược chiều lại. Những cơn giông bão làm chấn động biển cả, và nước biển trào lên các lục địa. Nước biển tràn ngập khắp nơi, quả địa cầu lại bị rung chuyển bởi những cơn động đất dữ dội. Nhiều vùng lục địa bị sụp lở và chìm xuống nước, những vùng khác lại trồi lên trên mặt biển. 
Xứ Tây Tạng, được đội lên đến bốn ngàn thước cao hơn mặt biển, không còn là một xứ nhiệt đới có bờ biển, một nơi nghỉ mát có thời tiết ôn hòa, dễ chịu nữa. Những dãy núi cao vút, những núi lửa phun trào và nham thạch bao vây chung quanh, kín đáo như tường thành. Trên miền thượng du, đất đai bị nứt nẻ ra thành những vực thẳm, tại đó loài cầm thú và thảo mộc của những thời đại đã qua vẫn tiếp tục sinh trưởng. 
Nhưng có rất nhiều điều mà tôi không thể nói ra, và một phần cuộc lễ điểm đạo của tôi thật quá thiêng liêng và có tính cách riêng tư nên không thể công bố trong một quyển sách dành cho đại chúng. 
Sau một thời gian, những linh ảnh mờ dần và biến mất. Dần dần tôi mất cả ý thức về cảnh giới siêu linh lẫn cả ý thức về cõi trần. Sau đó, tôi có một cảm giác khó chịu, lạnh lẽo kinh khủng vì nằm dài đã quá lâu trên một phiến đá trong bầu không khí lạnh buốt của ngôi mộ cổ. Những tư tưởng lạ từ bên ngoài đến “thăm dò” khối óc của tôi như những ngón tay sờ mó. ‘À, anh ta đã trở lại với chúng ta. Chúng ta đã đến kịp giờ.’ 
---------------------------------ooOoo---------------------------------



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

SACH OSHO

https://ilook.asia/sach/toan-tap-tac-pham-bac-thay-osho-60.html