21. Những nô lệ bé nhỏ.
Cha tôi luôn
cho rằng tôi bị ông bà ngoại “làm hư” vì họ đã không dạy bất cứ gì cho
tôi về kiến thức cũng như cách hành xử. Tôi nói với cha: “Cha có trách
hay hối hận gì thì cũng đã muộn rói. Con đã bị hư một cách hoàn toàn
rồi, cha không sửa chữa được nữa đâu. Nên xin hãy cứ để cho con hư theo
cách của riêng mình, ít nhất con cũng cảm thấy hạnh phúc vì mình tự ra
quyết định. Cha còn nhiều đứa con, hãy “dạy dỗ” chúng đi và đến cuối
cùng, cha sẽ thấy, ai mới thật là bị làm hư.”
Bạn có nghĩ đứa
trẻ có đủ quyền riêng tư và tự do như các bậc cha mẹ mong đợi cho chính
họ không? Đó là một trong những vấn đề nền tảng mà nhân loại phải đối
mặt ngày nay. Tương lai phụ thuộc vào cách chúng ta giải quyết vấn đề
này. Nó chưa từng được bàn tới trong quá khứ cả. Mỗi khi con người đạt
tới trình độ nhận thức mới thì những vấn đề cũng trưởng thành theo lên
tầm mức mới. Bạn sẽ thấy con người càng trưởng thành thì lại càng phải
đối mặt với nhiều vấn đề mới hơn.
Dần dần khi con
người tiến triển cao hơn, họ sẽ nhận ra rất nhiều dạng thức của tình
trạng nô lệ hóa. Chỉ mới gần đây ở phương Tây người ta đã đi tới khám
phá ra rằng sự nô lệ hóa nén tảng nhất là những gì xảy ra khi chúng ta
mới chỉ là một đứa trẻ. Điều này chưa bao giờ được nghĩ tới trước đây.
Cũng chưa bao giờ được để cập trong bất cứ kinh điển nào của thế giới.
Ai mà nghĩ ra được chuyện đó: Một đứa trẻ và một nô lệ sao? Một nô lệ
cho cha mẹ của chính nó, những người yêu thương nó rất nhiều, người sẵn
sàng hi sinh chính họ vì đứa trẻ? Thoạt nhiên ý tưởng này nghe có vẻ
khôi hài nhưng không! Hiện nay tâm lý học đã nghiên cứu rất sâu vào
trong tâm trí con người và nó đã khám phá ra một điều khá rõ ràng rằng
đứa trẻ là người đã từng bị khai thác nhiều nhất. Không ai từng bị lợi
dụng và khai thác nhiều như những đứa trẻ, tất nhiên chúng bị khai thác
đàng sau vỏ bọc của tình yêu.
Tôi không nói
rằng cha mẹ nhận thức được việc họ đang khai thác đứa trẻ. Họ không nhận
thức được việc họ đang áp đặt tình trạng nô lệ lên những đứa trẻ, họ
không nhận ra họ đang phá hủy đứa trẻ, họ đang làm cho nó trở nên ngu
ngốc, kém thông minh. Toàn bộ nỗ lực của họ là áp đặt lên những đứa trẻ
tư tưởng về đủ các loại ý thức hệ: Hindu, Hồi giáo, Tin Lành, Công giáo,
Phật giáo... toàn bộ sự áp đặt này là rất vô nhân đạo. Họ không nhận
thức được điều đó, nhưng việc họ có nhận thức được hay không chả khác
biệt gì. Đứa trẻ vẫn cứ tiếp tục bị áp đặt bởi cha mẹ theo hàng ngàn
cách khác nhau, tất nhiên những đứa trẻ hoàn toàn bất lực trước những áp
đặt đó bởi vì chúng lệ thuộc vào cha mẹ. Chúng không thể nổi loạn,
không thể trốn thoát, không thể bảo vệ chính mình. Chúng hoàn toàn mong
manh và ngây thơ - chính vì vậy mà chúng rất dễ bị khai thác và lợi
dụng.
Sự áp đặt của
cha mẹ là sự nô lệ hóa tồi tệ nhất từng tồn tại trên thế giới. Nó cần
phải được nhổ rễ, chỉ thế thì loài người mới thực sự có được tự do, tự
do thật sự, tự do nguyên bản, bởi vì những đứa trẻ ấy chính là cha mẹ
của thế hệ sau này, của loài người sau này. Nếu những đứa
trẻ được nuôi
dạy theo cách sai thế thì toàn bộ nhân loại sau này cũng sẽ đi sai. Đứa
trẻ chính là hạt mầm: nếu hạt mầm tự nó bị độc hại và bị hỏng bởi những
người có ý tốt, người có mong ước tốt, thế thì sẽ không còn hi vọng cho
tính cá nhân, cho tự do của con người trong tương lai. Giấc mộng về con
người tự do sẽ không bao giờ đạt tới được.
Những gì bạn
nghĩ bạn đang có, không phải tính cá nhân đâu, không phải cá tính mà chỉ
là nhân tính, nhân cách. Nó là thứ được trồng vào, cấy vào bạn, vào
trong tính hồn nhiên của bạn, bởi cha mẹ, bởi xã hội, bởi các vị tu sĩ,
bởi chính khách, bởi các nhà giáo dục.
Giáo dục từ mầm
non cho đến đại học, được thiết kế như một mô hình đầu tư nhằm sinh lợi
nhuận cho những người lãnh đạo. Mục tiêu của nó là phá hủy, làm tàn tật
mọi đứa trẻ theo cùng một cách sao cho nó điều chỉnh chính mình tuân
theo những điều kiện đã được ấn định của xã hội. Có một nỗi sợ. Sợ rằng
nếu như những đứa trẻ không được “áp đặt” một cách đầy đủ ngay từ ban
đầu thì nó sẽ trở nên rất thông minh, nó sẽ rất tỉnh táo, tỉnh thức,
toàn bộ cuộc đời của nó sẽ trở thành một cuộc nổi loạn và không ai muốn
một kẻ nổi loạn cả, mọi người muốn người khác nghe lời, dễ bảo.
Cha mẹ yêu
những đứa con biết nghe lời, và nhớ, những đứa trẻ nghe lời luôn là
những đứa trẻ ngu ngốc. Những đứa trẻ nổi loạn mới là những đứa thông
minh, nhưng nó không được cha mẹ yêu mến và tôn trọng. Giáo viên không
yêu mến nó, xã hội cũng không ưa nó, nó bị
lên án theo mọi
cách. Hoặc là nó phải thỏa hiệp với xã hội hoặc là nó phải sống trong
sự mặc cảm tội lỗi. Một cách tự nhiên, nó cảm thấy rằng nó là nỗi phiền
muộn của cha mẹ, họ không hạnh phúc, nó không thể làm cho họ hạnh phúc.
Nhớ điều này,
cha mẹ của Jesus không hạnh phúc với Jesus đâu, cha mẹ của Phật Thích Ca
cũng vậy. Những đúa trẻ đặc biệt ấy quá thông minh, quá nổi loạn, làm
sao cha mẹ có thể hạnh phúc với chúng được? Mỗi đứa trẻ được sinh ra với
một khả năng và tiềm năng to lớn, nếu nó được cho phép và giúp đỡ để
phát triển cá tính của mình mà không bị cản trở bởi người khác, chúng ta
hẳn sẽ có một thế giới tốt đẹp hơn nhiều, chúng ta sẽ có rất rất nhiều
những thiên tài khác nhau, đa dạng về mọi lĩnh vực. Thiên tài là hiện
tượng rất hiếm khi xảy ra không phải bởi vì thiên tài hiếm khi được sinh
ra, không. Thiên tài hiếm khi xảy ra bởi vì thật quá khó để họ trốn
thoát khỏi tiến trình, công thức áp đặt của xã hội. Chỉ thỉnh thoảng một
vài đứa trẻ may mắn xoay xở thoát ra khỏi cái móng vuốt ấy mới trở
thành thiên tài.
Mọi đứa trẻ đều
đang được bao bọc - bởi cha mẹ, xã hội, thầy cô, tu sĩ, bởi mọi loại
lợi ích - chúng bị bao bọc trong nhiều tầng nhiều lớp các điều kiện áp
đặt. Nó bị áp đặt từ ý thức hệ tôn giáo, nó không hề được tự chọn tôn
giáo mà nó thích. Bất cứ khi nào một người bị ép buộc mà không được lựa
chọn bởi chính họ, thì tức là họ đang bị làm cho tê liệt, trí thông minh
của họ đang bị phá hủy. Bạn không đưa cho người đó một cơ hội để chọn
lựa, bạn không cho phép người đó chức năng được thông minh,
bạn đang quản
lý người đó cứ như thể người đó là một cỗ máy. Người đó, đứa trẻ đó sẽ
trở thành một tín đồ Công giáo nhưng tín đồ Công giáo không phải do sự
lựa chọn mà do sự áp đặt. Một tín đồ còn có nghĩa lý gì khi mà đó không
phải sự lựa chọn của người ấy?
Từ khi cha mẹ
bị dính chặt vào một cái gì đó như là quốc tịch, tôn giáo, giáo phái, họ
bắt đầu áp đặt những ý tưởng ấy lên con cái của họ. Điều lạ lùng là
dường như những đứa trẻ luôn thông minh hơn cha mẹ của chúng, bởi vì cha
mẹ phụ thuộc vào quá khứ trong khi đúa trẻ thì hướng tới tương lai. Cha
mẹ đã bị cài đặt, bị thiết lập, bị bảo bọc, bị che đậy, tấm gương của
họ bị phủ quá nhiều lớp bụi đến nỗi nó không thể phản chiếu bất cứ gì
nữa cả. Họ mù.
Chỉ một người
mù mới có thể trở thành một tín đồ Hồi Giáo hay Jaina hay gì chăng nữa.
Một người với đôi mắt mở sẽ chỉ đơn thuần là người tâm linh, người tôn
giáo mà không cần trở thành tín đồ. Anh ta có thể không đi đến nhà thờ
đền chùa gì cả, anh ta sẽ không thờ lạy đủ các thể loại mẫu tượng ngu
ngốc. Tất cả mọi loại thượng đế, mọi loại thánh thần. Khi một đứa trẻ
được sinh ra nó là một phiến đá trắng, một tấm bảng vẫn còn tinh sạch
nguyên vẹn, chưa có gì được viết lên đó cả. Đó chính là vẻ đẹp của nó,
tấm gương sạch bong không chút bụi mờ. Nó có thể thấy mọi thứ một cách
rõ ràng hơn.
Mọi đứa trẻ
sinh ra đều thông minh, trong sáng, ngây thơ nhưng chúng ta bắt đầu nhồi
nhét rác rưởi vào chúng. Bọn trẻ xứng đáng có được nhiều quyền hơn cha
mẹ chúng bởi vì
chúng mới chỉ đang bắt đầu cuộc đời của chúng. Cha mẹ đã bị gánh nặng,
họ đã bị què quặt, họ đang phụ thuộc vào những cái nạng. Những đứa trẻ
nên có nhiều quyền hơn để được sống cuộc đời của nó. Nó cần sự riêng tư,
sự tôn trọng, nhưng cha mẹ không cho phép nó có bất cứ sự riêng tư nào,
thật ra họ rất sợ khi đứa trẻ được riêng tư. Họ cứ tiếp tục chõ mũi vào
mọi hành động của đứa trẻ, họ muốn can thiệp vào mọi thứ mà đứa trẻ
làm.
22. Nô lệ cho tôn giáo
May mắn của tôi
khi ở cùng ông bà ngoại là ông bà không bao giờ "truyền đạo" cho tôi
theo bất cứ cách nào. Ông bà để cho tôi được trong sạch hoàn toàn khỏi
mọi ý tưởng thiên vị tôn giáo. Nhưng khi về sống cùng gia đình, tôi đã
bị họ "cải huấn" theo nhiều cách dể tuân theo tôn giáo của gia đình. Tôi
đã phải làm rất nhiều thứ, đấu tranh rất nhiều lần để có quyền quyết
định xem mình đồng ý hay không đồng ý với tôn giáo và mọi thứ mà nó nói
đến. Tất cả mọi người trong nhà đều thành kính đến đền chùa, trừ tôi.
Nhưng không có nghĩa là tôi không quan tâm, sự thật thì tôi là người duy
nhất trong toàn bộ vùng ấy mà quan tâm về tôn giáo đủ để tự mình đi đến
tất cả những ngôi chùa, ngôi đền, nhà thờ Kito giáo, đền thờ Hồi giáo,
Phật giáo, Hindu giáo, Jaina giáo - một cách tự ý - để nghe xem họ
đang nói về cái gì và tranh luận với họ về những điều vô lý mà họ giảng
dạy. Và sau cùng tôi quyết định, tôi là người Phi tôn giáo, tôn giáo duy
nhất của tôi là tính tâm linh, là tìm ra chính mình.
Tôn giáo là thứ
già cỗi nhất, nó có tuổi và lịch sử rất dài. Nhiều phần của nó chỉ là
tàn tích từ quá khứ. Tôn giáo thực, tôn giáo bản chất là chỉ nói về cái
đang hiện hữu, cái thực tại, cái bây giờ. Tôn giáo giả nói về cái quá
khứ, cái đã xảy ra lâu lắc. Quá khứ của nhân loại là thứ rất ấu trĩ -
không phải là ngày thơ như trẻ con, nhưng là ấu trĩ, nhớ lấy. Đó là điều
không thể tránh khỏi của nó, ấu trĩ là chưa trưởng thành, không chịu
trưởng thành. Đừng bao giờ nghĩ về tôn giáo dưới dạng quá khứ bằng không
bạn sẽ đi sai khỏi toàn bộ bản chất vấn đề. Hãy nghĩ về tôn giáo qua
đôi mắt của thực tại, đầy mới là điều nên làm.
Khi bạn nghĩ về
Thuyết Tương đối bạn không đem Newton vào. Bạn biết là ông ấy đã khám
phá ra, đã đóng góp lý thuyết ấy vào sự phát triển khoa học, nhưng thời
của ông ấy qua rồi. Chúng ta biết ơn về bất kì cái gì ông ấy đã làm
nhưng với Albert Einstein, Newton đã kết thúc. Ông ấy sẽ vẫn chỉ còn là
một cước chú trong lịch sử phát triển khoa học.
Cùng điều đó về
tôn giáo, về mọi nỗ lực con người. Khi bạn đi lên mặt trăng trong con
tầu không gian, bạn sẽ không đề cập tới người phát minh ra xe bò kéo.
Người phát minh ra xe bò kéo chắc chắn là đã có một đóng góp lớn cho
lịch sử vì không có xe bò kéo chắc đã không có khả năng nào cho những
con tàu không gian - nhưng bạn không tôn thờ người phát minh ra xe bò
kéo. Bạn thậm chí còn không biết, không nhớ tên người đó. Trong khi bạn ở
trong con tàu không gian, tốt hơn cả là quên tất cả về xe bò kéo đi nếu
không bạn sẽ phát điên, mà chúng cũng chẳng ích gì. Ai bận tâm vé lý
thuyết xe bò kéo trong khi đang ở trong tàu không gian chứ?
Ai cũng có thể
dễ dàng đóng ý chỗ này về khoa học, nhưng về tôn giáo chúng ta lại không
suy nghĩ hợp lý được như thế. Về tôn giáo chúng ta rất tình cảm, rất
phi logic, rất mê tín.
Tôn giáo đã
trải qua hai pha. Pha thứ nhất là pha của lời cầu nguyện; đó là thời đại
của xe bò kéo của tôn giáo. Pha thứ hai là thiền - đó là thời đại của
tàu không gian của tôn giáo. Chúng là hai chiều hướng khác toàn bộ.
Nguồn gốc của chúng là khác, cách thức làm việc là khác, toàn thế môi
trường cũng khác. Người ta phải tỉnh táo để không bị lẫn lộn giữa hai
điều này.
Có nhiều lẫn
lộn trên khắp thế giới, cho nên để tôi giải thích cho bạn. Bạn phải rất
kiên nhẫn vì tất cả chúng ta đều bị ước định bởi tôn giáo của lời cầu
nguyện - tức tôn giáo xe bò kéo. Trọng lượng của chúng rất nặng, mọi con
người bị nghiền nát dưới trọng lượng của núi. Công việc của người thấy
là rất khó khăn, họ phải dọn sạch rác rưởi, bán thỉu bên trong bạn trước
khi cho bạn những ý tưởng về tôn giáo thiền - tôn giáo tàu vũ trụ. Toàn
thể quá khứ phải được phá hủy, chỉ thế thì bạn mới có khả năng giang
đôi cánh của bạn tới những gì bản chất, sự trưởng thành, tôn giáo của
người trưởng thành cũng phải là một tôn giáo trưởng thành.
Lời cầu nguyện
có nghĩa là sợ, mọi tôn giáo cũ đều hướng theo sợ. Thượng đế của họ
không là gì ngoài việc tạo ra sợ của họ. Nó không mang tính khám phá, nó
là tưởng tượng và phóng chiếu của nỗi sợ hãi mà thôi. Người ta sợ.
Người ta cần hình ảnh một người bố để bảo vệ cho họ khỏi mọi loại sự. Có
cả ngàn nỗi sợ trong cuộc sống: lo âu, đau khổ, những vấn đề cần đương
đầu, những câu đố không lời giải, những vực sâu không thể bắc cầu: con
người bị bao quanh bởi bóng tối lớn. Con người cần bàn tay bảo vệ; con
người muốn có ai đó như người bảo vệ, người hộ tống, người canh gác để
cho họ thấy an toàn Từng đứa trẻ được nuôi lớn bởi bố mẹ. Kinh nghiệm
đầu tiên của nó với bố mẹ là kinh nghiệm rất đẹp: nó được bảo vệ, được
thoải mái, đưowjc an ủi, được đáp ứng mọi nhu cầu; nó không phải lo
nghĩ, nó không có trách nhiệm, nó được chăm nom. Nó có thể dựa vào bố mẹ
lúc ban đầu nhưng điều này không nên duy trì mãi mãi. Sớm hay muộn nó
sẽ phải đứng trên đôi chân riêng của nó
Khoảnh khắc nó
đứng trên đôi chân của nó có một run rẩy lớn nảy sinh: bây giờ ai sẽ cứu
nó? Bây giờ ai sẽ an ủi nó? Mọi đứa trẻ lớn dần lên đều bằng cách này
hay cách khác cố tìm cách quay trở lại thời thơ ấu khi mà nó hoàn toàn
không bận tâm gì, không lo âu gì nhưng được an toàn, được bảo vệ. Cái
tình thế đã trưởng thành nhưng lại đi ngược về tìm kiếm những cảm giác
đã qua thời thơ ấu - chính là ý nghĩa của lời cầu nguyện.
Không phải ngẫu
nhiên mà mọi tôn giáo đều gọi Thượng đế là “Cha”. Vâng, cũng có vài tôn
giáo gọi Thượng đế là "Mẹ" - thì cũng là một cả. Thượng đế kiểu gì cũng
bị gán thành hình ảnh của bậc cha mẹ tối thượng.
Con người đã
gán hình ảnh Thượng đế, dựa theo hình ảnh của chính mình và bởi vì có
nhiều loại người thế trên thế giới nên cũng có nhiều hình ảnh thế về
Thượng đế. Nhưng hình ảnh ấy chỉ là bịa đặt của riêng bạn. Khi bạn cầu
nguyện là bạn đang van xin, đang năn nỉ và điều này chỉ chứng tỏ sự chưa
chín chắn của bạn, chưa trưởng thành. Điều này có thể làm bạn tổn
thương nhưng tôi không giúp được, nó đơn giản là thế.
Khoảnh khắc bạn
dừng hỏi xỉn, bạn sẽ dừng cầu nguyện - đó là phương pháp luận đơn giản.
Thượng đế là tính sáng tạo, chứ không phải người sáng tạo. Không có
phân biệt đối thể ta-người trong tính sáng tạo cho nên bản thân việc cầu
nguyện là việc làm sai - nó tạo ra phân chia. Sự phân chia giữa tính
sáng tạo và người sáng tạo này cần phải bị làm cho tan biến, chỉ thế thì
bạn mới có khả năng vươn lên những đỉnh núi của thiền, bước vào con tàu
không gian của thiền. Bằng không bạn sẽ vẫn còn bị giới hạn vào các
hình mẫu ấu trĩ của quá khứ: quỳ xuống trước các ảnh trong đến chùa,
trong giáo đường, trong nhà thờ và làm mọi thứ ngu xuẩn. Nhưng những thứ
ngu xuẩn đó đang được làm bởi hàng nghìn người khác, để cho bạn không
bao giờ trở nên nhận biết rằng bạn ngu. Khi đám đông ở cùng bạn, khi
quần chúng ở cùng bạn, bạn cảm thấy đang trên đất an toàn. Khi một mình,
bạn run rẩy.
Thiền là kinh
nghiệm về tính một mình, chỉ những ai rất dũng cảm mới có thể đi vào
chiều hướng thiền - vào con tàu không gian của tôn giáo. Lời cầu nguyện
là hiện tượng đám đông, nó là một phần của tâm trí tập thể.
Khi bạn ở trong
đám đông, chắc chắn niềm tin lớn nảy sinh trong bạn. Nó có tính lây
nhiễm vì nhiều người thế không thể sai được. Nhưng tôi muốn nói với bạn:
chỉ cá nhân mới có thể đúng, đám đông luôn sai. Chỉ hiếm lắm mới xuất
hiện được một cá nhân là đúng vì sức đè của đám đông nặng nề thế. Những
cá nhân ấy giống như đỉnh Everest, bạn không thể đi tới Everest cùng
quần chúng được. Bạn phải đi một mình. Chân lý chưa bao giờ được tìm
thấy nơi đám đông. Chân lý đã và luôn chỉ có thể thấy trong sự một mình
của các cá nhân.
Thiền là kinh
nghiệm một mình toàn bộ. Lời cầu nguyện là hiện tượng đám đông; nó là
tâm lí số đông. Do đó Hindu giáo, Kito giáo, Do Thái giáo, Mohamet giáo
tất cả vẫn còn là những tôn giáo của lời cầu nguyện. Ngay cả hai tôn
giáo đã cố trở thành tôn giáo của thiền cũng đã bị rơi lại vào trong đám
đông: Phật giáo và Jaina giáo. Hai tôn giáo này đã cố gắng là tôn giáo
của thiền nhưng duy nhất hai cá nhân: Phật và Mahavira, hai cá nhân, mới
xoay xở được. Khoảnh khắc họ chết đi tôn giáo của họ rơi vào hình mẫu
cũ của cầu nguyện. Bây giờ người Jaina đang cầu nguyện trước Mahavira,
các Phật tử - hàng triệu - đang cầu nguyện trước tượng Phật. Thật là nực
cười, lời cuối cùng của Phật là “Hãy là ánh sáng lên bản thân ngươi”
nhưng các đệ tử lại vẫn cứ dựa vào ánh sáng của Phật, hình mẫu của Phật;
họ tạo ra trăm ngàn tượng và đặt khắp mọi nơi. Nếu Phật quay lại, ông
ấy hẳn sẽ tự đập đầu mình vào các tượng ấy để tự tử quách cho rồi.
Khi bạn trưởng
thành; bạn sẽ không xin nữa. Khi bạn không xin nữa, bạn sẽ thôi cầu
nguyện. Dâng lời cảm tạ và biết ơn thì không phải là cầu nguyện. Hãy cảm
tạ, hãy biết ơn nhưng thôi xin xỏ; thôi năn nỉ đi - ấy mới là cầu
nguyện đích thực.
Tôi đang chỉ
bạn một loại tính tôn giáo khác toàn bộ. Nó là tính tôn giáo của thiền.
Bạn không tôn thờ, bạn không cầu nguyện, bạn phải đi vào sâu bên trong
cái ta riêng của mình - đó là hành trình của việc tự khám phá: khám phá
tính Thượng đế bên trong bạn, ngôi đền bên trong của bạn. Trong hành
trình ấy bạn phải tự bóc lấy con người mình như bóc củ hành vậy, bóc ra
hết lớp nọ tới lớp kia của mặt nạ, của triết lý, văn hóa, tín ngưỡng...
để khi cuối cùng mọi tầng đều bị bóc đi hết bạn sẽ thấy cái trống không ở
trong cốt lõi tận cùng. Cái không thuần khiết, trống rỗng ấy là
shunyata, là cái cốt lõi nhưng bạn cũng có thể gọi nó là tính Thượng đế
nữa, hoặc là nhà. Nó là việc nở hoa cao nhất, vĩ đại nhất của bản thể.
Hãy nhớ, Jesus
là giống như người phát minh xe bò kéo, điều ấy tốt nhưng không phù hợp
cho thế giới hiện tại ngày nay đâu, một khoảng cách 2000 năm đã thay đổi
tất cả rồi. Cho nên khi Jesus giảng gì đó, ông ấy không giảng cho bạn
đâu, ông áy giảng nó cho người khác, thời đại khác. 2000 năm làm sao bạn
lại có thể nghĩ rằng ông ấy và bạn có khả năng thấu hiểu và trao đổi?
Ngay cả kẻ hở nhỏ mấy chục năm của bạn và cha mẹ bạn cũng gần như không
thể bắc cầu qua được kia mà. Nói chuyện với cha bạn và bạn sẽ thấy như
đang nói với bức tường. Ông ấy cũng cảm thấy cùng điều như thế - không
có khả năng trao đổi.
Hai nghìn năm
là kẻ hở lớn. Nếu Jesus xuất hiện ngay lúc này bạn sẽ choáng - tại sao
con người này lại có thể được thờ phụng tới hàng ngàn năm? Nếu ông ấy
xuất hiện lại bạn sẽ không đề cao ông ấy đâu. Nhưng 2000 năm tô vẽ liên
tục đã tạo ra một Jesus luôn luôn tuyệt vời cho mọi thời đại - đó là
công trình vĩ đại của nhà thờ, người theo thuyết Thượng đế học, các
triết gia, tu sĩ - họ luôn cập nhật, luôn bịa thêm, sơn phết thêm những
lớp mới để cho Jesus thật phi thường. Vâng, trong ngày ấy ông ấy là phi
thường, thế thôi. Bạn đang đi trước ông ấy 2000 năm và những gì ông ấy
nói không dành cho bạn đâu. Mà ông ấy cũng chẳng biết bạn là ai nữa kìa,
ông ấy không có ý tưởng nào về bạn.
Những gì tôi
nói, là nói cho bạn, cho hiện tại này nhưng những gì Jesus nói là cho
người của thời ông ấy. Đây chính là vấn đề tôi phải đương đầu mọi ngày,
vì những người tới tôi họ đang sống trong tàn tích của Jesus hay của
Phật hay của Mahavira hay Krishna hay Zarathustra. Họ sống trong quá khứ
còn tôi là người đương đại và họ so sánh. Thật là khập khiễng. Thật là
vô nghĩa ngay từ chỗ đầu tiên. Tôi nói cho người của thế kỉ 20 mà thậm
chí là chỉ cho những người ưu tú của thế kỉ 20, không phải cho tất cả.
Do đó tất nhiên không phải ai cũng hiểu điều tôi nói.
Cuộc sống thì
tươi tắn như giọt sương trong ánh nắng mặt trời trên lá sen, tươi như vì
sao, tươi như đôi mắt trẻ sơ sinh, tươi như tiếng chim hót ngay lúc này
nhưng bạn lại sống trong lời kinh của hàng ngàn năm trước và vô cùng tự
hào về nó.
23. Nô lệ cho văn hóa
Ở Ấn Độ bạn
thường có hàng ngàn người họ hàng xa mà bạn chẳng biết ai là ai cả. Mỗi
khi có người nào đó đến nhà tôi, cha tôi thường bảo tôi đến chạm chân
người đó để thể hiện sự kính trọng đối với họ.
Tôi nói: “Con
sẽ không chạm vào chân ai cả cho tới khi con tìm ra được điều thật sự
đáng kính trọng từ người đó”. Dần dần khi những người họ hàng xa khác
tới thăm việc đầu tiên mọi người làm là thuyết phục tôi đi ra chỗ khác
chơi bởi vì, họ nói: “Điều đó thật là xấu hổ khi chúng ta nói ‘Con hãy
chạm chân người đàn ông già này’ thì con sẽ nói ‘Đợi đã, hãy để cho con
thấy vài điều đáng kính trọng ở ông ấy trước, không thì làm sao con có
thể chạm chân ông ấy khi không biết bất cứ điều gì về ổng, nếu vậy làm
sao cha có thể mong đợi con là người thành thật được?’”
Cha tôi luôn
bảo rằng tôi là người lố bịch, vì không chịu hành xử theo cách những
người khác luôn hành xử. Tôi bảo cha tôi rằng “Con đúng là người lố bịch
đấy, thì sao? Lố bịch tốt hơn là logic vì cuộc sống này đầy ắp những
điều lố bịch đẹp tuyệt vời."
Chúng ta được
dạy phải nghe theo những người có quyền lực - cha mẹ, thầy cô, mục sư,
Thượng Đế. Chúng ta được dạy là những người nắm giữ quyền lực thì luôn
luôn đúng, rằng: "Lẽ phải thuộc về kẻ mạnh". Và bạn phải tuân theo nó.
Việc này thật đơn giản vì nó không cần đến trí thông minh. Nó đơn giản
vì người ta không bao giờ có thể nói rằng đó là trách nhiệm của bạn,
rằng những gì xảy ra là trách nhiệm của bạn.
Tất cả các quân
đội trên khắp thế giới chỉ dạy một điều duy nhất trong chương trình
huấn luyện nhiều năm của họ, đó là chấp hành mệnh lệnh. Ở Đức, trong Thế
chiến thứ hai, có những người là người tốt, nhưng họ lại là những người
đứng đầu các trại tập trung. Họ là những người cha, người chồng, người
bạn tốt. Không ai có thể nghĩ được - khi thấy họ sống trong gia đình,
với bạn bè, trong câu lạc bộ - rằng những người này đang thiêu sống hàng
ngàn người Do Thái mỗi ngày.
Và họ không cảm
thấy có tội chút nào, bởi họ chỉ làm theo mệnh lệnh của cấp trên. Và họ
đã được huấn luyện để làm như vậy, để phục tùng mệnh lệnh. Nó đã thấm
vào máu thịt của họ. Khi mệnh lệnh được phát ra, cách duy nhất là phục
tùng.
Đó là cách mà
bấy lâu loài người vẫn sống cho đến nay, và chính vì thế mà tôi nói rằng
phục tùng mệnh lệnh là một trong những tội ác lớn nhất, bởi tất cả các
tội ác đều từ nó mà ra. Nó lấy đi trí khôn của bạn, nó lấy đi sự quyết
đoán của bạn, trách nhiệm của bạn. Nó phá hủy cá nhân của bạn. Nó biến
bạn thành một con robot.
Chính vì thế mà
tôi ủng hộ sự bất tuân. Thế nhưng bất tuân không đơn thuần là chống lại
sự phục tùng. Bất tuân mang ý nghĩa cao hơn phục tùng và cái gọi là sự
bất tuân được định nghĩa trong tự điển. Đơn giản bất tuân là khẳng định
trí khôn của bạn: "Tôi nhận lấy trách nhiệm, và tôi sẽ làm những điều
đúng đối với trái tim và sự hiện tồn của tôi. Và tôi sẽ không làm bất cứ
việc gì đi ngược lại trí khôn của tôi".
Cả cuộc đời
tôi, từ bé cho đến lớn, tôi cứ bị lên án bởi chuyện tôi không nghe lời.
Và tôi vẫn luôn nói rằng: "Không phải là con không biết nghe lời. Đơn
giản là con đang suy nghĩ bằng trí khôn của mình xem cái gì đúng, cái gì
cần làm, và con nhận toàn bộ trách nhiệm cho việc làm của mình. Nếu có
vấn đề gì thì đó là lỗi của con. Con không muốn phải đổ lỗi cho ai vì
chính họ đã bảo con làm việc đó".
Nhưng điều này thật khó chấp nhận đối với cha mẹ và thầy cô tôi.
Thế hệ già cũ
thường không muốn tôi tiếp xúc với lớp trẻ của họ, bởi lẽ lớp trẻ bây
giờ sẽ ngày càng mạnh mẽ hơn; và nếu lớp trẻ bùng lên với ngọn lửa ý
tưởng của tôi thì ngày mai thế giới này sẽ hoàn toàn sụp đổ. Trong mắt
họ, tôi là người lố bịch.
Bạn phải hiểu ý
nghĩa của sự lố bịch. Trong cuộc sống hễ cái gì có ý nghĩa quan trọng
thì đều lố bịch. Khi bạn yêu một người, điều đó là lố bịch chứ không
logic. Bạn không thể đưa ra câu trả lời logic cho câu hỏi tại sao bạn
lại yêu người đó. Đó là điều nằm ngoài tầm hiểu biết của bạn và chính nó
đã tìm đến bạn. Bạn không cần làm gì cả. Thậm chí nếu bạn có muốn ngăn
chặn nó cũng không được; trên thực tế bạn không thể làm gì để cưỡng lại
được nó.
Niềm vui của
bạn trong một thế giới đầy đau khổ là sự lố bịch. Nó chẳng có mối liên
hệ nào với nhân loại đau khổ hết. Bạn hoàn toàn đơn độc. Mọi thứ có giá
trị - bạn yêu âm nhạc, bạn rung động trước cái đẹp, bạn đi tìm thực tại,
bạn muốn hiểu chính mình - những thứ này đều hết sức lố bịch.
Hành thiền là lố bịch; đi kiếm tiền tốt hơn và logic hơn nhiều chứ.
Tôi lố bịch vì
những gì tôi dạy cho các bạn đều đi ngược lại với những gì người ta đã
dạy cho các bạn. Mà những điều đó người ta đã dạy các bạn quá lâu rồi và
bạn đã hoàn toàn quên rằng chúng có vấn đề.
Chẳng hạn, mọi
văn hóa trên thế giới đều dạy cho thế hệ trẻ của họ rằng tình yêu là
vĩnh cửu, rằng khi bạn yêu một người, bạn sẽ yêu người ấy mãi mãi. Ý
tưởng này đã sống qua biết bao thế kỷ nay ở khắp mọi nơi trên thế giới.
Có vẻ như rất logic nếu bạn yêu một người thì chính hiện tượng tình yêu
sẽ biến nó thành vĩnh cửu. Và tại sao mọi người chấp nhận nó - vì bạn
cũng ước mong có được một tình yêu mãi mãi. Tất cả mọi người đều muốn
như vậy.
Thế là ý tưởng
truyền thống và mong ước của bạn cộng hưởng với nhau, và nó trở thành
một chân lý. Nếu tình yêu của bạn thay đổi thì chính bạn và những người
khác sẽ bắt đầu cho rằng, đó không phải là tình yêu - chính vì thế mà nó
thay đổi. Bạn không thay đổi quan niệm về tình yêu vĩnh cửu mà lại cho
rằng, "Mình tưởng đó là tình yêu nhưng không phải, vì nó thay đổi mất
rồi - mà tình yêu thì có thay đổi bao giờ".
Hẳn là tôi lố
bịch vì tôi muốn nói với các bạn rằng, trong cuộc sống mọi thứ đều thay
đổi - dù bạn muốn hay không, dù bạn có ngồi bên bờ sông mà ước rằng
"sông ơi hãy ngừng chảy, mùa ơi thôi đừng đi, hoa ơi xin đừng tàn, tuổi
trẻ đừng giã biệt, tuổi già xin đừng đến, cuộc đời ơi xin chớ đưa ta đến
nấm mồ".
Ước muốn của
bạn là một chuyện, hiện hữu không nghe theo ước muốn của bạn, dù cho ước
muốn đó có đẹp, có chân thành đến đâu. Hiện hữu đi theo con đường của
nó. Mọi sự đều thay đổi - và tình yêu không phải ngoại lệ.
Giờ đây có lẽ
tôi là người đầu tiên muốn tất cả mọi người hiểu rõ rằng, tình yêu cũng
thay đổi: nó sinh ra, già đi và chết. Và tôi nghĩ như vậy là tốt. Nó cho
bạn nhiều cơ hội hơn để yêu những người khác, để bạn có một cuộc sống
phong phú hơn - bởi lẽ mỗi người đều có thể đem đến cho bạn một điều đặc
biệt. Bạn càng yêu nhiều, bạn càng giàu tình cảm, càng giàu tình yêu.
Và nếu bạn vứt
bỏ ý niệm về sự thường hằng thì tự động sự ghen tuông cũng ra đi; lúc đó
ghen tuông trở nên vô nghĩa. Cũng giống như khi bạn yêu rồi thì bạn
không thể cưỡng lại được, rồi sẽ có một ngày bạn hết yêu và bạn cũng
không thể cưỡng lại được. Một cơn gió thổi vào cuộc đời bạn và ra đi.
Cơn gió thật tuyệt, thật đẹp, thật thơm mát, và hẳn bạn muốn nó ở lại
mãi bên bạn. Bạn đóng hết các cửa lại để giữ cơn gió trong lành, thơm
mát ấy. Thế nhưng bằng việc đóng cửa bạn đã giết chết cơn gió, giết chết
sự trong lành, sự thơm mát của nó; nó không còn sức sống nữa. Và hôn
nhân cũng vậy.
Tôi bị cho là
lố bịch, vì tôi không muốn ép hiện hữu vào trong logic - một thứ do con
người tạo ra. Bằng cách áp đặt logic lên hiện hữu, đơn giản là bạn đã
đem lại đau khổ cho chính mình, bởi lẽ bạn sẽ thất bại; thất bại của bạn
là điều không thể tránh khỏi. Hàng triệu người vẫn đang vờ vĩnh rằng họ
vẫn yêu nhau. Họ đã từng yêu, nhưng giờ nó chỉ còn là kỷ niệm, và ngày
càng phai nhạt đi. Thế nhưng chỉ vì cái quan niệm về tình yêu vĩnh cửu
mà họ không dám nói ra sự thật.
Và đó không
phải là sự giận dữ, căm thù; không phải việc chống lại người kia. Đơn
giản đó là cuộc sống - tình yêu có thể thay đổi. Nó giống như mùa vậy,
và thật tốt khi ta có hạ và có đông, có mưa và có nắng; có thu và có
xuân.
Bạn có thể sống
cuộc đời mình theo logic hoặc theo hiện hữu. Hiện hữu thì lố bịch. Lúc
này nó thế này, lúc khác nó thế khác, lúc nọ lại thế kia. Và bạn phải tự
mình quyết định hoặc là vờ rằng mọi thứ vẫn không thay đổi, hoặc là
thành thật mà thừa nhận rằng đó là thời khắc đẹp nhất nhưng đã qua rồi.
Thiên đàng đã qua và giờ ta đang đứng giữa sa mạc, ta hiểu rằng mình
đang đứng giữa sa mạc; không thể mừng vui.
Dù sao thì
chúng ta vẫn gắn kết với nhau từ ý niệm về một tình yêu thường hằng.
Tình yêu thường hằng đó chính là một ý niệm logic.
Tình yêu thực
thụ là một bông hông thực thụ: nó sẽ thay đổi. Từ sáng đến tối nó sẽ có
những hình dáng, sắc thái khác nhau, và nó sẽ tàn khi đêm đến. Và tôi
tin rằng điều đó chẳng có gì là sai trái cả.
Tình yêu chỉ là
một ví dụ. Trong cuộc đời bạn sẽ gặp vô số những điều tương tự như vậy.
Chẳng hạn, người ta dạy cho trẻ con phải biết kính trọng cha mẹ, thầy
cô và những người lớn tuổi hơn. Sự kính trọng là một kinh nghiệm đẹp đẽ,
nhưng khi bạn bị buộc phải kính trọng người khác theo lễ nghi thì nó
trở thành tệ hại.
Thế nhưng hết
thế kỷ này đến thế kỷ khác, cũng vẫn ý niệm đó được áp đặt lên những
phương diện khác: phải kính trọng cha mẹ mình. Nhưng tại sao? Chỉ vì họ
đã sinh ra bạn ư? Chẳng phải đó là niềm vui đối với họ sao? Nếu đối với
họ đó là niềm vui thì hẳn họ đã nhận được phân thưởng xứng đáng. Và nếu
họ muốn bạn phải kính trọng họ thì họ phải xứng đáng với điều đó.
Trong đó có một
logic - rằng nếu bạn kính trọng người khác, họ sẽ kính trọng bạn; nếu
bạn giúp đỡ xã hội, xã hội sẽ giúp lại bạn. Nhưng nếu bạn lên án xã hội,
nếu bạn nhìn ra sai lầm khắp mọi nơi, bạn sẽ lạc lõng một mình và không
thể thắng được số đông. Logic là cách duy nhất để chiến thắng xã hội.
Hãy sống một cách logic, và bạn sẽ leo lên những nấc thang một cách dễ dàng hơn.
Tôi nói: "Con
muốn sống theo hiện hữu - mà hiện hữu thì lố bịch.” Vâng, cuộc sống này,
hiện hữu này không có logic, không có ý nghĩa. Nó mang trong mình vẻ
đẹp bao la, nó mang những triển vọng hạnh phúc, nhưng bạn không thể tạo
ra một hệ thống logic từ nó được. Nó là một sự lố bịch lớn lao.
Vậy nên bạn hãy
nhớ rằng: nghị viện châu Âu, chính phủ Mỹ - đều đang hành động rất
logic - và các nước khác cũng sẽ sớm làm theo như thế. Nhưng tôi không
phải là một người nhà logic học. Tôi là một người theo chủ nghĩa hiện
sinh.
Tôi tin vào sự hỗn loạn vô nghĩa và đẹp đẽ này của hiện hữu, và tôi sẵn sàng đi theo nó đến bất kỳ đâu.
Tôi không có
đích đến, vì hiện hữu không có đích đến. Đơn giản nó chỉ khai hoa và vui
múa - nhưng xin bạn đừng hỏi tại sao. Chỉ căng tràn nhựa sống, và không
có lý do gì cả. Tôi ở trong hiện hữu. Một sannyasin có nghĩa là: Ở
trong hiện hữu.
Điều duy nhất bạn cần từ bỏ chính là lý trí logic của bạn.
Thế nên bạn hãy đi theo con đường hiện hữu phi logic. Thế giới có gọi bạn là kẻ điên rồ, lố bịch... thì đã sao?
24. Nô lệ cho giáo dục
“Không” - là từ
đầu tiên tôi nói với cha tôi trong ngày đầu tiên đến trường đi học tiểu
học. “Con từ chối bước vào cái nhà tù này. Nhìn nó mà xem, thật xấu xí
và u ám, vậy mà cha bắt con vào đây và lãng phí nhiều năm cuộc đời sao?”
“Con sẽ học
triết và trở thành một triết gia, bởi vì triết học là vớ vẩn, nó chỉ là
lời, là phương tiện, không có sự thật nào trong đó cả. Không một triết
gia nào từng giác ngộ cả. Con muốn học triết để hiểu cặn kẽ về nó và con
sẽ dùng cả đời mình để chống lại nó.” Đây là những lời tôi nói trước
khi quyết định vào đại học trước sự ngỡ ngàng của gia đình.
Ngày mà tôi
nhận được bằng tốt nghiệp hạng ưu của trường đại học, tôi đem về cho cha
tôi và đốt nó trước mặt ông, tôi nói: “Cha cần tấm bằng này, không phải
con. Con sẽ chứng minh cuộc sống này chẳng cần gì một tấm bằng đại học
cả.”
Thế rồi tôi trở
thành giáo sư của trường đại học, ngày tôi quyết định từ bỏ việc giảng
dạy sau nhiều năm, tôi nói với vị hiệu trưởng: “Nơi này hoàn toàn không
phải là giáo dục, những gì đang xảy ra ở đây là phi-giáo-dục. Tôi từ bỏ
nó.”
Nếu giáo dục
không có khả năng dạy bạn về cả sự sống và cái chết, nó không thể là
giáo dục hoàn hảo. Nếu giáo dục không làm cho con người trở thành đàng
hoàng, tự trọng, không thấp kém hay cao hơn bất cứ ai, nó không phải là
giáo dục. Và giáo dục thực sẽ phải mang ra ngoài cái ẩn dấu bên trong
bạn - cái mà Thượng đế đã đặt vào trong bạn như một kho báu - để khám
phá nó, để biểu lộ nó, để làm cho bạn tỏa sáng trong bóng tối.
Giáo dục là một
cây cầu giữa khả năng và thực tế. Giáo dục là để giúp bạn trở thành
điều đó cái mà bạn chỉ ở trong một dạng hạt mầm. Và cái điều đang được
làm trong các trường học bình thường và các cao đẳng và các đại học
không là giáo dục. Nó chỉ chuẩn bị cho bạn có một công việc tốt, một
việc kiếm sống tốt; nó không là giáo dục thực. Nó không cho bạn cuộc
sống. Có lẽ nó có thể cho bạn một mức sống tốt hơn, nhưng mức sống tốt
hơn không phải là tiêu mức tốt hơn của cuộc sống; chúng là không đồng
nghĩa.
Cái gọi là giáo
dục này diễn ra trên thế giới chuẩn bị cho bạn chỉ để kiếm bánh mỳ. Và
Jesus nói: “Con người không thể sống bằng mỗi bánh mỳ.” Và đó là điều
các đại học của bạn đã và đang làm - họ chuẩn bị cho bạn kiếm bánh mỳ
theo một cách thức tốt hơn, theo một cách thức dễ dàng hơn, theo một
cách thức thoải mái hơn, với ít nỗ lực hơn, với ít sự gian khổ hơn.
Nhưng tất cả điều đó họ làm là để chuẩn bị cho bạn kiếm bánh mỳ và bơ
của bạn. Đó là một loại giáo dục rất, rất nguyên thủy: nó không chuẩn bị
bạn cho cuộc sống.
Nền giáo dục
này đã thịnh hành trong quá khứ là rất không đẩy đủ, không hoàn thiện,
hời hợt. Nó chỉ tạo ra những người có thể kiếm sống, nhưng nó không mang
lại bất cứ cái nhìn sâu sắc vào chính bản thân cuộc sống. Giáo dục là
để cho bạn sự giàu có bên trong. Nó không chỉ làm cho bạn có hiểu biết
hơn; đó là một ý tưởng về giáo dục nguyên thủy. Nó là nguyên thủy bởi vì
nó được bắt rễ từ nỗi sợ, được bắt rễ trong cái mà “Nếu tôi không được
giáo dục tốt; tôi sẽ không có khả năng sống sót.” Nó là nguyên thủy bởi
vì sâu xuống dưới nó là rất bạo lực: nổ dạy bạn cạnh tranh; nó làm cho
bạn tham vọng. Nó không là gì mà là việc chuẩn bị cho một kẻ giết người;
thế giới cạnh tranh nơi mọi người đều là kẻ thù của mọi người khác.
Nền giáo dục
thực sự sẽ không dạy bạn cạnh tranh; nó sẽ dạy bạn hợp tác. Nó sẽ không
dạy bạn tranh đấu và đi tới thứ nhất. Nó sẽ dạy bạn sáng tạo, đáng yêu,
phúc lạc, không có bất kì so sánh nào với người khác. Nó sẽ không dạy
bạn rằng bạn chỉ có thể hạnh phúc khi bạn là người thứ nhất. Điều đó cực
kì vô nghĩa. Bạn không thể hạnh phúc chỉ bởi là người thứ nhất. Và
trong cố gắng là người thứ nhất bạn trải qua khổ tới mức đến lúc bạn trở
thành quen với khổ trước khi bạn là người thứ nhất.
Đến lúc bạn trở
thành tổng thống hay thủ tướng của đất nước, bạn đã trải qua khổ nhiều
tới mức bây giờ khổ là bản tính thứ hai của bạn. Căng thẳng đã trở thành
thâm căn cố đế; lo âu đã trở thành cách sống của bạn. Bạn không biết
cách nào khác; đầy chính là phong cách sống của bạn. Cho nên cho dù bạn
đã trở thành người thứ nhất, bạn vẫn còn thận trọng; lo âu, sợ sệt. Nó
không thay đổi phẩm chất bên trong của bạn chút nào.
Nền giáo dục
thực sự sẽ không dạy bạn là người thứ nhất. Nó sẽ bảo bạn tận hưởng bất
kì cái gì bạn đang làm, không vì kết quả, mà vì bản thân hành động. Cũng
giống như họa sĩ hay vũ công hay nhạc sĩ...
Bạn có thể vẽ
theo hai cách. Bạn có thể vẽ để ganh đua với họa sĩ khác; bạn muốn là
họa sĩ vĩ đại nhất trên thế giới, bạn muốn là một Picasso hay một Van
Gogh. Thế thì tranh của bạn sẽ là loại hai, bởi vì tâm trí bạn không
quan tâm tới bản thân việc vẽ; nó quan tâm tới việc là người thứ nhất,
họa sĩ vĩ đại nhất trên thế giới. Bạn sẽ không đi sâu vào nghệ thuật vẽ.
Bạn không tận hưởng nó, bạn chỉ dùng nó như bậc đá để bước lên. Bạn
đang trong trò chơi bản ngã.
Nhưng nếu bạn
quá bận tâm tới kết quả, kết quả tối thượng - rằng bạn phải trở nên nổi
tiếng, rằng bạn phải đoạt giải thưởng Nobel, rằng bạn phải là họa sĩ thứ
nhất trên thế giới, rằng bạn phải đánh bại mọi họa sĩ khác cho tới giờ -
thế thì mối quan tâm của bạn không ở trong việc vẽ; việc vẽ là phụ. Và
tất nhiên, với mối quan tâm phụ vào việc vẽ bạn không thể vẽ được cái gì
độc đáo; nó sẽ tầm thường.
Bản ngã không
thể đem được cái gì phi thường vào thế giới này; cái phi thường tới chỉ
qua vô ngã. Và đấy là trường hợp xảy ra cho mọi người.
Với bất kỳ hình
thức của cạnh tranh nào đều có bạo lực sâu ở bên dưới, và nó tạo ra
những người không biết yêu thương. Toàn bộ nỗ lực là để trở thành người
thành đạt - có tên tuổi, nổi tiếng, và tất cả các loại tham vọng. Rõ
ràng là họ phải đấu tranh và giành giật cho chính họ. Điều đó phá hủy
niềm vui và sự thân thiện của họ. Có vẻ như tất cả mọi người đều đang
chiến đấu chống lại cả thế giới.
Chính vì vậy
thế giới đã trở thành một nhà thương điên. Tình yêu không thể xảy ra.
Làm sao tình yêu có thể xảy ra trong một thế giới bạo lực, tham vọng,
cạnh tranh như vậy nơi mọi người ngồi trên cổ của nhau? “Nếu tôi không
được giáo dục tốt, được bảo vệ tốt, có hiểu biết cao, tôi có thể không
có khả năng sống sót trong sự vật lộn với cuộc sống." Nó mang đến cuộc
sống chỉ như một cuộc vật lộn.
Cái nhìn của tôi
về giáo dục là cuộc sống không nên được xem như một cuộc vật lộn cho sự
sống còn; cuộc sống nên được xem như một sự mở hội. Cuộc sống không nên
chỉ là sự cạnh tranh, cuộc sống cũng nên là sự vui mừng. Ca hát và nhảy
múa và thơ ca và âm nhạc và hội họa, và tất cả những thứ đó là sẵn có
trong thế giới - giáo dục nên chuẩn bị cho bạn để rơi vào trong giai
điệu với nó - với cây cối, với chim muông, với bầu trời, với mặt trời và
mặt trăng.
Và giáo dục nên
chuẩn bị cho bạn để là bản thân bạn. Ngay bây giờ nó chuẩn bị cho bạn
để là một kẻ bắt chước; nó dạy bạn làm thế nào để như những người khác.
Đây là vô giáo dục. Giáo dục đúng sẽ dạy bạn làm sao để là bản thân bạn,
đích thực bản thân bạn. Bạn là duy nhất. Không có ai như bạn, đã từng
như vậy, sẽ không bao giờ như vậy. Đây là một sự tôn trọng vô cùng điều
mà Thượng đế đã trao cho bạn. Đây là sự vinh dự của bạn, rằng bạn là duy
nhất. Đừng trở thành kẻ bắt chước, đừng trở thành những bản sao giấy
than.
Nhưng đó là
điều mà cái được gọi là giáo dục của bạn cứ làm: nó làm ra những bản sao
giấy than; nó phá hủy bộ mặt nguyên thủy của bạn. Từ “education-giáo
dục” có hai nghĩa, cả hai đều đẹp.
Một nghĩa được
biết rất rõ ràng, mặc dù không có kinh nghiệm chút nào, đó là: để kéo
cái gì đó từ bạn ra. “Education-giáo dục” ngụ ý: để kéo ra ngoài cái mà ở
bên trong bạn, để làm cho khả năng của bạn thành thực tế, như bạn kéo
nước từ giếng lên.
Nhưng điều này
không phải là đang không được kinh nghiệm. Mà ngược lại, nhiều thứ đang
được rót vào bên trong bạn, không được kéo ra khỏi bạn. Địa lý và lịch
sử và toán học, họ cứ rót chúng vào trong bạn. Bạn trở thành con vẹt.
Bạn đã được xem như chiếc máy tính; chỉ như họ nạp dữ liệu vào máy tính,
họ nạp vào bạn. Các cơ quan giáo dục của bạn là những nơi mà ở đó nhiều
thứ được nhồi vào trong đầu bạn.
Giáo dục thực
sẽ phải mang ra ngoài cái ẩn dấu bên trong bạn - cái mà Thượng đế đã đặt
vào trong bạn như một kho báu - để khám phá nó, để biểu lộ nó, để làm
cho bạn tỏa sáng.
Và một nghĩa
khác của từ này, nó thậm chí sâu xa hơn: “education-giáo dục” đến từ từ
“educare”; nó ngụ ý dẫn bạn từ bóng tối ra ánh sáng. Một nghĩa cực kỳ
quan trọng: để dẫn dắt bạn từ bóng tối ra ánh sáng.
Giáo dục cho
đến nay luôn hướng tới mục tiêu: những gì bạn đang học tập là không quan
trọng, điều quan trọng là kỳ thi sẽ đến một năm hoặc hai năm sau đó. Nó
làm cho tương lai trở nên quan trọng - quan trọng hơn hiện tại. Nó hy
sinh hiện tại cho tương lai. Và điều đó trở thành phong cách sống của
bạn, bạn luôn luôn hy sinh khoảnh khắc hiện tại cho một cái gì đó không
có bây giờ. Nó tạo ra một sự trống rỗng khổng lổ trong cuộc sống.
Trước khi tôi
đi vào các chiều hướng giáo dục, vài điều phải được lưu ý. Một: không
nên có bất cứ loại kiểm tra nào như một phần của giáo dục, mà mọi ngày,
mọi giờ dưới sự quan sát của các giáo viên; sự nhận xét suốt năm sẽ
quyết định bạn có chuyển lên nữa hay bạn vẫn còn trong lớp cũ thấp hơn.
Không ai rớt, không ai vượt qua - đó chỉ là vài người nhanh và vài người
lười hơn chút ít - bởi vì cái ý tưởng về thất bại tạo ra một vết thương
sâu về sự tháp kém, và cái ý tưởng về thành công cũng tạo ra một loại
bệnh, về cao siêu. Không ai thấp hơn và không ai cao hơn. Mỗi người chỉ
là bản thân người đó, không thể so sánh. Bởi vậy, các bài kiểm tra sẽ
không có ở bất cứ đâu. Điều đó sẽ làm thay đổi toàn thể viễn cảnh từ
tương lai cho tới hiện tại. Cái bạn đang làm chính khoảnh khắc này sẽ
quyết định, không có năm câu hỏi vào cuối hai năm học. Hàng nghìn thứ
bạn sẽ phải trải qua trong sốt hai năm này, mỗi ngày sẽ quyết định; bởi
vậy giáo dục sẽ không hướng mục tiêu.
Giáo viên là
hết sức quan trọng trong quá khứ, bởi vì anh ta biết anh ta phải trải
qua tất cả các bài kiểm tra, anh ta đã tích lũy tri thức. Nhưng tình
huống đã thay đổi - và đây là một trong những vấn đề, rằng các tình
huống thay đổi nhưng các đáp ứng của chúng ta vẫn còn những người cũ.
Bây giờ việc bùng nổ tri thức là quá rộng, rất lớn, quá nhanh, đến mức
bạn không thể viết một quyển sách lớn về bất cứ chủ đề khoa học nào bởi
vì vào lúc sách của bạn hoàn thành, nó sẽ lạc hậu; các sự kiện mới, các
khám phá mới sẽ làm cho nó thành không liên quan. Bởi vậy bây giờ khoa
học dựa vào các bài báo, vào các tạp chí xuất bản định kỳ, không phải
vào các quyển sách. Giáo viên được dạy ba mươi năm trước. Trong ba mươi
năm mọi thứ đã thay đổi, và anh ta cứ lặp lại điều anh ta đã được dạy.
Anh ta là lạc hậu rồi, và anh ta đang làm cho các sinh viên của mình lạc
hậu. Bởi vậy trong cái nhìn của tôi giáo viên không có chỗ đứng nào.
Thay vì các
giáo viên sẽ có những người hướng dẫn, và sự khác nhau phải được hiểu:
người hướng dẫn sẽ nói cho bạn nơi, trong thư viện, để tìm thông tin mới
nhất theo chủ đề. Và việc dạy không nên được làm theo cách thức khuôn
mẫu cũ, bởi vì tivi có thể làm điều đó tốt hơn nhiều, có thể mang thông
tin mới nhất không có bất cứ vấn đề nào. Giáo viên phải lôi cuốn đôi tai
bạn; tivi hấp dẫn trực tiếp tới mắt bạn; và sự tác động này là lớn hơn
nhiều, bởi vì đôi mắt thu hút tám mươi phần trăm các tinh huống cuộc
sống của bạn - chúng là phần sống động nhất.
Nếu bạn có thể
nhìn thấy cái gì đó không có nhu cầu phải nhớ nó; nhưng nếu bạn nghe cái
gì đó bạn phải nhớ nó. Gần như chín mươi tám phần trăm giáo dục có thể
được thực hiện qua tivi, và các câu hỏi mà sinh viên sẽ hỏi có thể được
trả lời bằng máy tính. Giáo viên nên chỉ là người hướng dẫn để chỉ ra
cho bạn kênh đúng, chỉ ra cho bạn làm sao để sử dụng máy tính, làm sao
để tìm thấy quyển sách mới nhất. Chức năng của giáo viên là hoàn toàn
khác. Giáo viên sẽ không truyền đạt tri thức cho bạn, giáo viên sẽ làm
cho bạn nhận biết về tri thức đương đại, về tri thức mới nhất. Giáo viên
chỉ là người hướng dẫn.
25.Năm chiều hướng giáo dục
Thứ nhất là
thông tin, như lịch sử, địa lý, và nhiều chủ đề khác mà có thể được đề
cập bởi tivi và máy tính cùng nhau. Ngôn ngữ cũng là một phần của chiều
hướng thông tin.
Mọi người trên
thế giới nên biết ít nhất hai ngôn ngữ; một là tiếng mẹ đẻ, và tiếng
khác là tiếng Anh như một phương tiện giao tiếp quốc tế. Chúng cũng có
thể được dạy chính xác hơn bởi tivi - trọng âm, ngữ pháp, mọi thứ có thể
được dạy chính xác hơn bởi con người. Chúng ta có thể tạo ra trên thế
giới không khí của tình anh em: ngôn ngữ kết nối mọi người và ngôn ngữ
cũng chia tách mọi người. Ngay bây giờ không có ngôn ngữ quốc tế nào.
Điều này là do những định kiến của bạn. Tiếng Anh là hoàn toàn có khả
năng, bởi vì nó được biết bởi nhiều người hơn trên khắp thế giới trên
một phạm vi rộng - cho dù nó không phải là ngôn ngữ số một. Ngôn ngữ
nhiều người biết nhất là tiếng Tây ban nha. Nhưng những người nói tiếng
Tây ban nha là tập trung, nó không trải ra khắp thế giới. Thứ hai là
tiếng Trung quốc, tiếng này thậm chí còn tập trung hơn, chỉ ở Trung
quốc. Về số người sử dụng, các ngôn ngữ này được nói bởi nhiều người
hơn, nhưng vấn để không phải là con số, mà vấn đề là sự phổ biến. Tiếng
Anh là ngôn ngữ phổ biến nhất, mọi người nên vứt bỏ các định kiến của họ
- họ nên nhìn vào thực tế. Có nhiều nỗ lực để tạo ra các ngôn ngữ để
tránh những định kiến - người Tây ban nha có thể nói ngôn ngữ của họ là
ngôn ngữ quốc tế bởi vì nó được nhiều người nói nhất hơn bất cứ ngôn ngữ
nào... Để tránh định kiến này, các ngôn ngữ như Esperanto đã được tạo
ra. Nhưng không ngôn ngữ được tạo ra nào đã có thể thực hiện chức năng.
Có vài thứ phát triển, cái không thể được tạo ra,- ngôn ngữ là một sự
phát triển hàng nghìn năm.
Esperanto trông
quá không tự nhiên đến mức những nỗ lực đó đã thất bại. Nhưng điều hoàn
toàn cần thiết là tạo ra hai ngôn ngữ - đầu tiên, là tiếng mẹ đẻ, bởi
vì có những cảm giác và sắc thái mà bạn chỉ có thể nói bằng tiếng mẹ đẻ.
Một trong những
giáo sư của tôi, S.K.Saxena, một người hay đi khắp thế giới, ông là một
giáo sư triết học trên nhiều quốc gia, thường nói rằng trong tiếng nước
ngoài bạn có thể làm mọi thứ, nhưng khi nó đến với đấu tranh hay với
tình yêu, bạn cảm thấy rằng bạn đang không thật và chân thành với những
cảm giác của bạn. Bởi vậy vì cảm giác của bạn và vì sự chân thành của
bạn, tiếng mẹ đẻ... cái mà bạn hấp thu cùng với sữa của người mẹ, cái
trở thành một phần của máu bạn và xương bạn và tủy bạn. Nhưng chừng đó
là không đủ - chừng đó tạo ra những nhóm người nhỏ và làm ra những người
lạ khác nhau. Một ngôn ngữ quốc tế là hoàn toàn cần thiết như nền tảng
của thế giới, cho loài người. Bởi vậy hai ngôn ngữ nên hoàn toàn cần
thiết cho mọi người. Điều đó sẽ đến trong chiều hướng đầu tiên.Phần thứ
hai nên là các ngành khoa học. Chúng cũng có thể được truyền đạt bởi
tivi và máy tính; nhưng chúng là phức tạp hơn và việc hướng dẫn sẽ là
cần thiết hơn. Khoa học là những chủ đề hết sức quan trọng bởi vì nó là
một nửa của thực tại; bên ngoài thực tại.
Và chiều hướng
thứ ba là cái mà đang bỏ lỡ trong giáo dục ngày nay, nghệ thuật sống.
Mọi người đã cứ tin rằng họ biết tình yêu là gì. Họ không biết... và vào
lúc họ biết; nó là quá muộn rồi. Mỗi đứa trẻ nên được giúp đỡ để biến
đổi giận dữ; sự căm thù, ghen tỵ của nó thành tình yêu. Một phần quan
trọng của chiều hướng thứ ba cũng nên là một chút khả năng hài hước.
Cái được gọi là
giáo dục của chúng ta làm cho mọi người buồn chán và nghiêm túc. Và nếu
một phần ba cuộc đời bạn bị lãng phí trong đại học với sự buồn rầu và
nghiêm nghị; nó trở nên ăn sâu. Bạn quên mất ngôn ngữ của tiếng cười -
và người mà quên mất ngôn ngữ của tiếng cười thì cũng đã quên mất nhiều
về cuộc sống. Bởi vậy tình yêu, tiếng cười, và một sự hiểu biết sơ sài
về cuộc sống và các kỳ quan của nó; sự huyền bí của nó... Những con chim
đang hót trên cây này không nên chẳng có ai nghe. Những cây và hoa và
những vì sao này nên có kết nối với trái tim bạn. Mặt trời mọc và mặt
trời lặn này sẽ không chỉ ở bên ngoài các thứ - chúng cũng nên là cái gì
đó ở bên trong. Một sự sùng kính đối với cuộc sống nên là cơ sở của
chiều hướng thứ ba. Mọi người là quá thiếu tôn kính đối với cuộc sống.
Họ vẫn cứ giết các con vật để ăn - họ coi nó là trò chơi; và nếu con vật
này ăn họ - thế thì họ gọi nó là tai họa. Kỳ lạ... trong trò chơi cả
hai bên nên được trao cơ hội ngang bằng nhau. Các con vật này không có
vũ khí còn bạn có súng máy hay tên bắn... Bạn có thể đã không nghĩ về
tại sao tên bắn và súng máy được phát minh: để bạn có thể giết con vật
này từ một khoảng cách xa; đến gần là nguy hiểm. Cái loại trò chơi gì
thế này? Và con vật đáng thương này, sự phòng thủ chống lại những viên
đạn của bạn... Đó không phải là vấn đề về giết những con vật này; đó là
vấn đề về việc thiếu tôn kính đối với cuộc sống, bởi vì tất cả cái bạn
cần có thể được cung cấp hoặc bởi thức ăn nhân tạo, hay bởi các phương
pháp khoa học khác. Tất cả các nhu cầu của bạn có thể được hoàn thành;
không con vật nào phải bị giết. Và một người mà giết các con vật, sâu
xuống có thể giết con người không có khó khăn gì.
Một sự tôn
trọng vô cùng đối với cuộc sống nên được dạy, bởi vì cuộc sống là Thượng
đế và không có bất cứ Thượng đế nào khác hơn bản thân cuộc sống, và
niềm vui, tiếng cười, khả năng hài hước - tóm lại một tinh thần lễ hội.
Chiều hướng thứ
tư nên là nghệ thuật của sáng tạo: hội họa, âm nhạc, sự lành nghề, nghề
gốm, nghề thợ xây - bất cứ cái gì là sáng tạo. Mọi lĩnh vực của sáng
tạo nên được cho phép; các sinh viên có thể chọn. Chỉ nên có vài thứ bắt
buộc - ví dụ một ngôn ngữ quốc tế nên là bắt buộc; một khả năng kiếm
sống nào đó nên là bắt buộc; một nghệ thuật sáng tạo nào đó nên là bắt
buộc. Bạn có thể chọn toàn thể cầu vồng của các nghệ thuật sáng tạo, bởi
vì trừ khi một người học được làm sao để sáng tạo, người đó chưa bao
giờ là một phần của sự tồn tại, cái mà liên tục sáng tạo. Bởi việc sáng
tạo người ta trở nên thiêng liêng; sáng tạo là lời cầu nguyện duy nhất.
Và chiều hướng
thứ năm nên là nghệ thuật của việc chết. Trong chiều hướng thứ năm này
sẽ là tất cả những việc thiền, để bạn có thế biết không có cái chết nào,
để bạn có thể trở nên nhận biết về một cuộc sống vĩnh hằng bên trong
bạn. Điều này nên là tuyệt đối cần thiết, bởi vì mọi người đều phải
chết; không ai có thể tránh được nó. Và dưới cái ô lớn của thiền, bạn có
thể được giới thiệu tới Zen, tới Đạo, tới Yoga, tới Hassidism, tới tất
cả các loại và tất cả các khả năng đã từng tồn tại, những thứ này giáo
dục đã không có bất cứ quan tâm nào. Trong chiều hướng thứ năm, bạn cũng
nên được làm cho nhận biết về những nghệ thuật thượng võ như aikido,
jujitsu, judo - nghệ thuật của tự vệ mà không có vũ khí - mà không chỉ
tự vệ, mà cùng đồng thời với thiền.
26. Ấn Độ và tính tâm linh ảo mộng
Một lần có một
tín đồ của Radhaswami tới tôi. Họ tin vào mười bốn cõi trời, mười bốn
tầng của thiên đường. Tất nhiên, người sáng lập ra tôn giáo của họ đã
đạt tới tầng thứ mười bốn. Đâu đó ở các tầng thứ sáu, thứ bảy là Jesus,
Kabir, Meera, Phật, Kriskna, Rama... Vị này mang tới cho tôi một tấm bản
đồ và muốn có sự chấp thuận của tôi: tôi nghĩ gì vềbản đồ này, nó đúng
hay không?
Tôi nói “Nó tuyệt đối đúng.”
Ông ta bị
choáng, bị bối rối khủng khiếp vì nhiều người đã bảo ông ấy đừng đến với
tôi, tôi sẽ quấy phá ổng tới cùng. Nhưng tôi lại nói “Tuyệt đối đúng”
khiến ông ấy choáng. Tôi nói “Tôi biết, tôi đã thấy Guru của ông ở tầng
thứ mười bốn - tôi đã thấy ông ta ở đó.”
Ông ta nói: “Ý ông là gì?”
Tôi nói “Tôi đang ở tầng thứ mười lăm, và guru của ông cứ liên tục cầu xin tôi hãy kéo ông ấy ra khỏi tầng mười bốn.”
Vị này không
chỉ choáng, ông ta tức giận. Nhưng nếu có mười bốn tầng thì tại sao lại
không có mười lăm? Chẳng ai có thể chứng minh và cũng chẳng ai có thể
bác bỏ được.
Tại sao người Ấn Độ nghĩ họ là tâm linh hơn người khác?
Xin tha thứ cho
người Ấn Độ nghèo. Họ không có gì khác để khoe khoang. Bạn có thể khoe
khoang về những thứ khác: tiền, quyền, bom nguyên tử hay khinh khí, máy
bay, rằng bạn đã bước đi trên mặt trăng, rằng bạn đã xuyên thấu vào
chính bí mật của cuộc sống, khoa học, công nghệ của bạn. Bạn có thể khoe
khoang về sự sung túc của bạn. Ấn Độ nghèo chả có gì khác để khoe
khoang, nó chỉ có thể khoe khoang về cái gì đó vô hình để cho không cần
chứng minh điều đó. Tâm linh là thứ như vậy, bạn có thể khoe khoang về
nó và không ai có thể chứng minh được nó, không ai có thể bác bỏ được
nó.
Trong hàng
nghìn năm Ấn Độ đã chịu đựng chết đói, nghèo nàn, nhiều tới mức nó phải
hợp lý hóa điều đó. Nó phải hợp lý hóa cái nghèo để biến cái nghèo thành
một thứ tâm linh. Người tâm linh Ấn Độ từ bỏ mọi thứ tiện nghi và trở
thành nghèo. Khi người đó thành nghèo, chỉ thế thì người Ấn Độ mới thừa
nhận người đó là tâm linh. Nếu không nghèo thì không thể nào tâm linh
được, tâm trí Ấn Độ đã được thiết lập điều đó.
Nghèo nàn dần
trở thành chính nền tảng cho tính tâm linh Ấn Độ. Bạn càng nghèo bạn lại
càng tâm linh. Cho dù bạn không mạnh khỏe, điều đó là tốt cho việc là
tâm linh. Nếu bạn hành hạ thân thể, nhịn ăn, không đáp ứng các nhu cầu
của cơ thể thế thì bạn được coi là một người đang làm công việc tâm
linh.
Cho nên bạn sẽ
nhìn vào cái gọi là thánh nhân tâm linh Ấn Độ và nhiều người trong số họ
sẽ có vẻ ốm yếu về thể chất, trong khổ đau sâu sắc, trong tự hành hạ,
mặt họ xanh nhợt vì nhịn ăn. Nhưng nếu bạn hỏi các đệ tử của họ thì sẽ
được nghe trả lời rằng “Trông đấy, hào quang vàng đang bao quanh khuôn
mặt thánh nhân của chúng tôi" - Tôi đã gặp những người như vậy - chỉ có
hào quang sốt rét, hào quang chết đói trên mặt họ nhưng các đệ tử họ sẽ
nói đó là hào quang vàng của tính tâm linh.
Bá tước
Keyserling viết trong nhật ký của ông ấy rằng khi ông ấy tới Ấn Độ, ông
hiểu ra lần đầu tiên rằng nghèo nàn, chết đói, sức khỏe ốm yếu, những
điều này là yêu cầu cần thiết cho tính tâm linh. Đây là những cách hợp
lý hóa. Và mọi người đều muốn cao hơn người khác, siêu hơn người khác.
Bây giờ, không
có cách khác cho người Ấn Độ tuyên bố về tính cao siêu của họ. Họ không
thể cạnh tranh được trong khoa học, công nghệ hay công nghiệp, nhưng họ
có thế cạnh tranh được trong tính tâm linh. Họ có nhiều khả năng hơn để
nhịn ăn, để bỏ đói bản thân họ. Trong hàng nghìn năm họ đã thực hành
chết đói, họ đã quen với việc đó và thực hiện một cách dễ dàng.
Người Ấn Độ có
thể ngồi trong ánh mặt trời nóng, gần như trong trạng thái cháy nắng từ
việc tắm nắng, không bị rối loạn. Bạn không thể ngồi ở đó được - bạn đã
quen với điều hòa không khí. Người Ấn Độ có thể ngồi trong tiết trời
lạnh giá, trần trụi trong Himalayas. Bạn không thể ngồi thế được, bạn đã
trở nên quen với máy sưởi. Thân thể trở nên quen với những điều kiện mà
nó được thiết lập. Và vì thế Ấn Độ có thể tự hào tuyên bố “Nghèo khổ
chính là tâm linh. Đất nước của chúng tôi là đất nước tâm linh. Thử tới
mà đua với chúng tôi xem" và không quốc gia nào có thể đua được. Chắc
chắn, khi bạn không thể đua được, bạn phải cúi mình trước người Ấn Độ
rồi thì bạn phải chấp nhận rằng họ hẳn có bí mật gì đó. Chẳng có bí mật
gì cả - chỉ là một sự nghèo nàn dai dẳng.
Ấn Độ vừa nghèo
vừa bẩn, nhưng cái nghèo và bẩn ấy đã được nâng lên thành tính tâm
linh. Bạn có biết không, sư Jaina không bao giờ tắm. Tắm bị coi là xa
hoa. Họ không đánh răng vì nó cũng bị cho là xa hoa. Bây giờ, tâm linh
theo tâm trí của người Jaina là không tắm, không đánh răng thậm chí
không cả chải đầu hay cắt tóc. Khi râu hay tóc quá dài, họ không được
dùng các đồ cơ khí hay máy móc kể cả với thứ như dao cạo râu, kéo cắt
tóc. Những thứ đồ tiện dụng ấy bị cho là phản tâm linh. Thế nên họ nhổ
bằng tay và để làm cho việc nhổ râu tóc này mang tính tâm linh, họ tổ
chức một nghi lễ cho nó với rất đông người tụ tập lại xem. Tôi đã ở
trong đám tụ tập đó. Hàng nghìn người Jaina tập hợp lại đơn giản để xem
một người tu hành đáng thương đói bẩn nhổ tóc của mình ra một cách say
mê điên dại. Mọi người quan sát điều đó với một niềm vui lớn và suy nghĩ
tâm linh sâu sắc rằng “Nhìn mà xem, ông ta quả là một thánh nhân vì
người thường sao có thể làm được điều đó. Ấn Độ thật hạnh phúc khi có
nhiều thánh nhân như vậy. Đất nước chúng ta quả là một đất nước tâm
linh.”
Không quốc gia
nào có tính tâm linh cả. Điều đó chưa từng xảy ra trên thế giới. Người
tâm linh thì nhiều nhưng quốc gia mang tính tâm linh thì chưa. Người tâm
linh ở khắp nơi, vô biên giới nhưng dốt nát đã ngăn cản con người nhận
ra tính tâm linh của người khác.
Một hôm tôi nói
chuyện với một người Ấn Độ và tôi bảo ông ấy rằng ở mọi nơi tính tâm
linh đã và đang xảy ra, không phải chỉ mỗi Ấn Độ và Ấn Độ chẳng có tính
tâm linh gì ghê gớm cả. Ông ấy nói “Nhưng nhiều thánh nhân thế đã xuất
hiện ở đây. Còn đâu khác có nhiều thánh nhân thế xuất hiện?”
Tôi nói “Ông có biết bao nhiêu thánh nhân đã xuất hiện ở Trung Quốc không? Nói cho tôi vài cái tên.”
Ông ấy thậm chí
còn không biết tới một cái tên nào. Ông ấy chẳng biết gì về Lão Tử,
Trang Tử, Liệt Tử. Ông ấy không biết gì về truyền thống huyền môn ngàn
năm của Trung Quốc. Nhưng ông ấy chỉ biết về Nanak, Kabir, Mahavira,
Krishna, Phật cho nên ông nghĩ mọi thánh nhân lớn đã chỉ xuất hiện ở Ấn
Độ. Điều đó là cực kì ngu xuẩn. Họ đã xuất hiện ở Nhật Bản, Ai Cập,
Jerusalem, mọi nơi. Nhưng bạn không biết và bạn không thậm chí muốn
biết. Bạn đơn giản vẫn còn bị giới hạn vào giáo phái riêng của bạn.
Bạn có biết bao
nhiêu nhà huyền môn Hassid đã đạt tới Thượng đế không? Bạn có biết bao
nhiêu Thiền sư đã đạt tới Phật tính không? Bạn có biết bao nhiêu người
Sufi đã đạt tới trạng thái tối thượng không? Không ai quan tâm, không ai
muốn biết. Mọi người sống trong góc nhỏ ấm cúng của tôn giáo của họ và
nghĩ rằng đó là tất cả. Người theo Jesus hài lòng với Jesus và không bận
tâm tim hiểu Phật. Người theo Phật cũng chẳng thiết tha gì tìm hiểu
Jesus và triết lý của ông ấy. Đấy là hai tôn giáo lớn, huống gì hàng
trăm ngàn tôn giáo nhỏ khác. Ai bận tâm chứ? Đó là lý do hiểu biết và
nhận thức của mọi người rất thu hẹp, đồng thời họ trở nên rất bảo thủ,
cứng nhắc và không thể mở rộng tâm trí ra để chấp nhận những người khác.
Họ bám vào niềm tin nhỏ bé hạn hẹp của mình và làm cho nó trở nên đẹp
đẽ nhất có thể. Nếu chỉ có một thứ để bám vào, tất nhiên người ta sẽ làm
mọi cách cho thứ đó trở nên đáng giá.
Đó đích xác là tính tâm linh của Ấn Độ.
Không người Ấn
Độ nào có nhiều tính tâm linh hơn người khác. Tính tâm linh là cái gì đó
xảy ra cho các cá nhân. Chính cá nhân trở nên bắt nhịp với Thượng đế.
Điều đó không liên quan gì tới bất cứ tính tập thể nào: quốc gia, dòng
dõi, tôn giáo, quốc tịch, nghề nghiệp...
Một đất nước mà
có quá nhiều “bác sĩ” xuất hiện thì không hẳn đất nước ấy rất tuyệt vời
đâu, nó có thể là đất nước rất nhiều bệnh đấy.
Trong một bộ tộc kia chuyên ăn thịt người và bán thịt người.
Vợ của tù
trưởng đi vào cửa hàng thịt để tìm miếng sườn cho bữa tối của chông
mình. Cô ấy trông thấy rất nhiều thịt với nhiêu mức giá khác nhau: thịt
củ người Mỹ — 70 xu nửa kí, người Italia 95 xu, người Ấn Độ hai đô la
cho cũng nửa kí thịt. Người đàn bà ngạc nhiên "Tại sao thịt người Ấn Độ
lại tới 2,5 đô la? Cái gì làm cho họ đắt thế? Tính tâm linh sao?"
"Dạ thưa bà"
ông hàng thịt đáp "Thứ nhất, người Ấn Độ không có thịt, phải rất khó để
tìm được thịt trên người họ và sau đó, phần khó nhất: bà đã bao giờ thử
lau sạch người Ấn Độ chưa?"
Cái rởm sẽ chết sớm
Trong năm nghìn
năm, Ấn Độ đã từng sống theo cách rất mê tín. Các tu sĩ đã chi phối Ấn
Độ nhiều hơn bất kì nước nào, và họ là những người tinh ranh nhất trên
thế giới. Vì việc khai khác, áp bức của họ, vì việc đầu độc của họ với
linh hồn người Ấn Độ trong 5000 năm, Ấn Độ đã không có khả năng tìm ra
chân lý theo bất cứ cách nào. Họ vẫn đứng vững như Bức Vạn Lý Trường
Thành Trung Quốc chống lại chân lý.
Đó là vấn đề
sống và chết cho giới tu sĩ. Hoặc chân lý hoặc tu sĩ - cả hai không thể
cùng sống sót được, không có khả năng nào cho cả hai cùng tồn tại. Nếu
chân lý thắng, tu sĩ biến mất do đó chân lý phải không được phép thắng
để cho tu sĩ có thể liên tục chi phối toàn bộ. Không nước nào khác đã
từng bị chi phối bởi tu sĩ nhiều như Ấn Độ đã bị. Trong năm nghìn năm Ấn
Độ duy trì trạng thái nô lệ tâm linh.
Không có gì để
hỗ trợ cho bản ngã của quốc gia: không khoa học, không công nghệ, không
giàu có, không tự do chính trị, không dân chủ. Bạn có thể thấy ngay vấn
đề. Một quốc gia cần cái gì đó để tự hào, nó cần cái gì đó để nó có thể
phụ thuộc vào, nó cần sự ủng hộ vì quốc gia không phải một thực thể, nhớ
đấy. Nó không phải thực thể nên nó cần sự ủng hộ.
Cá nhân có thể
tổn tại mà không có bản ngã vì cá nhân là thực thể và thực thể không có
nhu cầu của bản ngã nhưng quốc gia, dân tộc, giống nòi, tôn giáo, nhà
nước - những cái này không thể tồn tại nếu không có các bản ngã hỗ trợ
cho nó. Không có chất keo bản ngã gắn kết, những thứ này sẽ rời ra và
mất tích không dấu vét. Chính bản ngã vận hành như một trung tâm giả giữ
chúng gắn lại với nhau. Do đó, vị Phật có thể tồn tại không có bản ngã
nhưng Phật giáo thì không thể tồn tại được. Krishna có thể tồn tại không
bản ngã nhưng Hindu giáo thì không thể tồn tại được. Bao giờ cũng nhớ:
thực thể giả cần trung tâm giả, bằng không nó sẽ héo tàn đi.
Ấn Độ như một
đất nước, một quốc gia, một giống nòi, nó có nhu cầu mênh mông để tạo ra
một trung tâm giả. Không thể dùng các phương án khác như tiền bạc, công
nghệ, khoa học, quyền lực, chính trị - cho nên điều duy nhất nó có thể
làm là tự hào về thế giới tâm linh, thế giới khác. Điều này là dễ dàng
vì đây là dạng hàng hóa vô hình mà không ai có thể chứng minh được nó,
không ai bác bỏ được nó. Rất dễ sống trong hi vọng về một thế giới khác
nhưng ai sẽ tạo ra hi vọng đó, bản ngã đó ngoài các tu sĩ, các brahmins?
Họ đã trở thành những trung gian quan trọng. Họ nói về thế giới khác,
họ thậm chí có thể trao cho bạn bản đồ về thế giới khác. Họ không biết
gì về bản đồ của thế giới này đâu. Hãy hỏi họ một vài nơi và họ sẽ im
bặt nhưng nếu bạn hỏi họ vé cõi trời thế thì họ có thể nói cho bạn mọi
chi tiết về cõi trời - không chỉ một mà bảy cõi trời - cõi trời bảy
tầng. Họ có thể kể cho bạn mọi chi tiết, các chi tiết chi li về bảy địa
ngục hoàn toàn dễ dàng, không vấn đề gì cả.
Người Hindu tin
vào bảy địa ngục. Người Jaina tin vào ba địa ngục và ba cõi trời. Có
một người vào thời của Mahavira còn hay hơn nữa, ông ta tuyên bố có bảy
trăm địa ngục và bảy trăm cõi trời. Ông ấy nói “Tôi đã khám phá xa hơn
mọi người, tôi tìm ra bảy trăm.”27.
Trẻ con và
người già: không khoảng cáchẤn Độ là một văn hóa mục ruỗng nhất đã từng
tiến hóa trên thế giới; mục ruỗng nhất; mục ruỗng tới chính cốt lõi. Nó
mục ruỗng tới mức nó đã quên mát cách chết. Để chết người ta cần chút ít
sống động và chừng nào bạn chưa biết cách chết; bạn đơn giản sống thực
vật, tù đọng.
Chết là quá
trình sống lại. Cũng như từng cá nhân phải chết đi để được sinh ra lần
nữa, từng nền văn hóa phải chết để được sinh ra lần nữa; từng xã hội
từng nền văn minh phải đi qua sống tới chết; từ chết tới sống một lần
nữa.
Văn hóa Ấn Độ
là văn hóa duy nhất đã không chết trong hàng nghìn năm. Đã có nhiều nén
văn hóa trên thế giới: Assyrian, Babylonian, Hi Lạp, La Mã, Ai Cập. Họ
tất cả đã nở hoa, bừng nở, họ đã đóng góp cho thế giới cái đẹp của họ,
và thế rồi họ biến mất không đế lại dấu vết gì đằng sau. Đây là cách nó
phải vậy.
Nếu mọi người
trong gia đình bạn đều sống - bố bạn và bố của bố bạn và bố của bố ông
ấy cho tới tận cùng, tới Adam và Eva và Thượng đế Cha - thế thì một điều
là chắc chắn: bạn sẽ bị nghiền nát. Nhiều người già thế, toàn các xác
chết, là đủ để nghiền nát đứa trẻ nhỏ, còn tinh tế như hoa hồng.
Một trong những điều vĩ đại nhất mà Friedrich Nietzsche đã làm là tuyên bố “thượng đế đã chết và con người là tự do”.
Thượng đế như
cha phải chết đi, bằng không trọng lượng của ông ấy sẽ quá lớn, nó sẽ
như núi non đè lên bạn. Nó sẽ không cho phép sự tươi tắn của nhân loại,
nó sẽ không cho phép thám hiểm, nó sẽ không cho phép phiêu lưu. Người
già sẽ quá thận trọng, quá tinh ranh, quá tính toán, quá nhiều tính Do
Thái. Toàn thể kinh nghiệm của người đó về quá khứ sẽ là đủ để phá hủy
đứa trẻ. Đứa trẻ cần thám hiểm và tất nhiên, khi bạn thám hiểm bạn phải
phạm nhiều sai lầm - đó là một phần của trường thành. Người ta phải được
phép phạm sai lầm. Người ta phải chắc chắn đủ thông minh để không phạm
cùng sai lầm lặp đi lặp lại; người ta nên đủ tính sáng tạo để phát minh
các sai lầm mới. Đó là cách người ta mở rộng, trưởng thành; đó là cách
tâm thức trở nên được tích hợp.
Cuộc sống là quá
trình thử và sai. Người già bỏ mọi sai lầm, sai sót. Người đó trở thành
quen thuộc để làm điều đúng tới mức thám hiểm, phiêu lưu biến mất khỏi
cuộc sống người đó. Và bởi vì nỗi sợ riêng của người đó mà người đó sẽ
không cho phép các thế hệ mới đi vào các hướng mới, vào các chiều mới.
Người đó sẽ làm cho họ sợ, người đó sẽ làm cho họ tê liệt, người đó sẽ
làm què quặt họ. Đó là điều đã từng xảy ra ở Ấn Độ.
Nhưng đó không
phải là điều thực. Làm sao sống từng khoảnh khắc một cách toàn bộ? Vấn
đề là ở chiều sâu. Chỉ những người sống trong chiều sâu mới biết cuộc
sống tất cả là gì. Những người sống trong cuộc sống kéo dài theo chiều
ngang, bề ngoài thì cuộc sống của họ sẽ chỉ như lớp mặt nạ, không có
tính đích thực. Do đó, tôi nói văn hóa Ấn Độ không sống không chết nhưng
sống trong một loại đình trệ, trong một loại lấp lửng. Nó là nền văn
hóa ma. Mọi cái có ý nghĩa, mọi cái làm cho cuộc sống thành niềm vui, đã
bị bỏ đi vì nó là nguy hiểm, và mọi cái ổn định, thường hằng, đồ giả,
đồ nhựa đã được thu thập vì nó an toàn hơn.
Nhớ lấy, đây là
cách thức của người già. Người già bao giờ cũng nghĩ tới an toàn, an
ninh, số dư ngân hàng, người đó bao giờ cũng nghĩ dưới dạng sợ hãi, vì
chết bao giờ cũng đứng trước người đó.
Trẻ con không
bao giờ bận tâm tới chết, mối quan tâm của nó là sống. Nó quan tâm tới
việc đi vào nơi chưa được thăm dò, đi vào cái không biết, nó sẵn sàng
mạo hiểm. Và những người sẵn sàng mạo hiểm, chỉ họ mới sống thực. Họ có
thể không sống lâu, nhưng điều đó không thành vấn đề chút nào. Chỉ sống
một khoảnh khắc với tính đích thực, tính toàn bộ, tính toàn vẹn là quá
đủ. Một khoảnh khắc của kinh nghiệm toàn bộ là lớn hơn nhiều so với cái
toàn thể vĩnh hằng. Nó chứa toàn thể vĩnh hằng, nó chứa vô thời gian.
Nhưng người ta có thể liên tục sống kiểu thực vật trong hàng nghìn năm
như bắp cải, súp lơ - có vẻ rất linh thiêng, rất thánh thiện.
Bắp cải không
là tội nhân và súp lơ là học giả lớn. Bắp cải trở thành súp lơ qua giáo
dục đại học. Súp lơ là bác học, nhà thượng đế học, người tôn giáo. Nước
này đầy những người này, và gánh nặng của họ là lớn. Ai đó cần giúp cho
nước này chết đi để cho nó có thể sống lại lần nữa. Việc đóng đinh là
điều kiện căn bản cho phục sinh. Nghệ thuật sống được đi trước bởi nghệ
thuật chết.
Ấn Độ là đất
nước của những kẻ giả vờ và tôi cứ liên tục làm tổn thương họ. Tôi muốn
làm tổn thương họ bởi vì đó là cách duy nhất để kéo mủ ra khỏi các vết
thương cũ hàng thế kỉ của họ. Họ giận tôi, họ kết án tôi. Điều đó chỉ ra
rằng tôi đang đi trên con đường đúng. Họ không thể bỏ qua cho tôi được,
không thể tha thứ; không thể từ bi; không thể thấu hiểu - và đó mới
thực là họ, thực là những gì Ấn Độ đang có. Mọi câu kinh và niềm tự hào
tâm linh về tình yêu thương của nó đều là dối trá. Cho nên người Ấn Độ
chỉ có hai loại; hoặc ở cùng tôi hoặc chống lại tôi - cách nào tôi cũng
sẵn lòng - nhưng tôi muốn họ quyết định. Tôi làm nhiều thứ để lay động
họ, chọc giận họ để cho họ phải lựa chọn, phải quyết định dứt khoát thứ
tâm linh nào họ đang có.
Chỉ một vài
người thông minh mới có thể ở cùng tôi, chúng tôi có thể biến đổi toàn
thể nền văn hóa mục ruỗng này và cho nó cuộc sống mới. Điều đó cần từ
bi. Hàng ngàn năm nô lệ chính trị lẫn tâm linh - cần lý do nào khác
không để các vị Phật hướng rất nhiều lòng từ bi đến đất nước này, chọn
đất nước này?
Nhưng họ sẽ
không dễ dàng thay đổi đâu. Thay đổi là gian nan, nó đi ngược lại với
khuynh hướng của bạn, nó đi ngược lại thói quen của bạn, ngược lại tàn
tích của bạn. Tàn tích của Ấn Độ thì rất dài. Họ đang chịu đựng quá khứ,
họ chỉ có quá khứ.
Nhưng nhớ một
điều: đứa trẻ chỉ có tương lai; nó không có quá khứ. Do đó, đứa trẻ
không bao giờ nghĩ dưới dạng hoài niệm. Không có gì ở lưng nó. Nó tươi
tắn đến mức nó không có kí ức. Thanh niên sống trong hiện tại. Hiện tại
là đẹp thế; quá khứ chỉ là thời thơ ấu, nhiều nhất là việc chuẩn bị. Và
thanh niên không bận tâm tới tương lai - người ta bắt đầu nghĩ về tương
lai khi hiện tại bắt đầu trượt khỏi bàn tay của người ta.
Người già chỉ
nghĩ về quá khứ, người ấy không có tương lai. Chỉ có cái chết, đêm tối
đang chờ đợi. Ông ấy muốn né tránh nó. Cách duy nhất là quay lưng lại
với tương lai và nhìn vào quá khứ. Đứa trẻ nhìn vào tương lai, người già
nhìn vào quá khứ; thanh niên vẫn còn trong hiện tại.
Cùng điều đó là
đúng cho văn hóa. Khi một nền văn hóa rất mới nó nhìn vào tương lai. Nó
có khát vọng vô cùng về các vì sao, nó trưởng thành, nó mở rộng. Khi
một nền văn hóa vẫn còn thực sự trẻ trung - thực ra rất hiếm - thế thì
văn hóa vẫn còn trong hiện tại. Khi nền văn hóa trở nên già, nó bắt đầu
nghĩ dưới dạng hoài niệm, về quá khứ, thời đại vàng son mà không còn
nữa.
Về mặt cá nhân
cũng vậy, thanh niên là hiện tượng mới. Trong quá khứ đứa trẻ thường đi
từ thời thơ ấu sang tuổi già; thanh niên không phải là giai đoạn chút
nào. Ở các nước nghèo nó vẫn vậy. Bạn có thể thấy các bộ lạc nguyên thủy
của các nước nghèo, trẻ con năm - sáu tuổi đã phải làm việc như người
già. Bảy - tám tuổi và chúng đã bị thiêu cháy bởi những lo nghĩ. Chúng
sẽ không có cơ hội để là thanh niên, là trẻ. Do đó, trong quá khứ đã
không có các kẽ hở thế hệ. Kẽ hở thế hệ là hiện tượng mới, một hiện
tượng rất có ý nghĩa. Đây là lần đầu tiên nó đã xảy ra, đây là lần đầu
tiên chúng ta có khả năng đảm đương nó. Nó thuộc vào xã hội giàu có, nó
có tính giàu có. Thế thì kẽ hở thế hệ mới xuất hiện. Trong xã hội nghèo,
không kẻ hở.
Vì vậy, đứa trẻ
và người già đang đối diện nhau - không kẻ hở. Đứa trẻ nhìn về tương
lai, người già nhìn về quá khứ. Do đó, bạn bao giờ cũng thấy một tình
bạn lớn giữa trẻ con và người già. Họ đối diện lẫn nhau. Điều đó bao giờ
cũng là tình thế đương đại: trẻ con và người già sống cùng nhau rất hòa
thuận - không kẻ hở.
Hạnh phúc của
tôi, may mắn của tôi là xuyên suốt 7 năm thơ ấu đầu đời của mình, tôi
được sống bên những người già tuyệt vời nhất trên đời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét