TRƯỢC KHÍ VÀ CÁCH HOÁ GIẢI
Trược Là Gì?
Theo môn Trường Sinh Học có 3 loại trược: Vật Chất Trược, Khí Trược, và Tư Tưởng Trược. Trong bài này chỉ trình bày sơ lược về "Khí Trược", sẽ không đi sâu vào chi tiết chuyên môn. Trược khí là những năng lượng xấu, năng lượng tiêu cực, tà khí, âm khí có ở khắp mọi nơi và trong cơ thể; tác động không tốt, ảnh hưởng đến sức khỏe cả thể xác lẫn tinh thần.
Trong con người, ít hay nhiều ai cũng đều có trược khí. Y khoa hiện đại không có khái niệm về trược khí, nên không thể chẫn đoán hay chữa trị được. Trược có thể làm ngưng trệ bế tắc các đường kinh mạch, huyệt đạo, lục phủ ngũ tạng và các bộ phận khác. Ngoài ra, ở mức độ nghiêm trọng hơn có thể ảnh hưởng đến thể phách (thể năng lực), thể vía (thể cảm xúc), thể trí, và những đường kinh khí thuộc hệ thống luân xa. Lưu ý thêm, khí trược thông thường không làm bít hay đóng luân xa. Nhưng khí trược do xử dụng bùa ngải - tà khí và tư tưởng trược - ý nghĩ xấu ác, sự nóng giận quá độ mới có thể làm bít luân xa (luân xa ngưng hoạt động).
Nguyên Nhân Bị Trược
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra trược khí, được quy vào hai dạng: Một là từ ngoài xâm nhập vào, hai là từ bên trong cơ thể phát sinh ra trược. Cả hai dạng trên đều có liên quan, tác động qua lại với nhau; và cả hai đều có những nguyên nhân xa gần từ trong quá khứ hoặc hiện tại. Ví như một thanh sắt bị nước và oxy làm cho rĩ sét và rĩ sét ăn mòn thanh sắc, thanh sắc lại sinh ra rĩ sét. Tương tự như vậy, trược khí từ ngoài đi vào, nếu để lâu ngày sinh ra bịnh tật, bịnh tiếp tục sinh ra trược khí.
Nguyên nhân xâm nhập từ bên ngoài (phần lớn là tự mình rước vào) bao gồm:
- Người xử dụng bùa chú, bùa hộ mạng, bùa may mắn, bùa làm ăn..., đốt uống bùa chú, dùng ngải ... Những thứ này đều là năng lực âm, năng lực của tinh linh ngũ hành, âm binh, âm thần có tốt có xấu hoặc cũng không xấu không tốt, tùy theo người dùng vào mục đích và chủ ý gì. Tốt cho người này, nhưng có thề xấu đối với người khác. Ban đầu có thể là tốt cho điều gì đó, nhưng về sau - lâu ngày trở nên những năng lực đối kháng lại sinh lực khí hay nội khí, thanh khí trong cơ thể. Những năng lực này cản trở, phá vỡ nguyên lý cân bằng âm dương, ngũ hành khí hoá tự nhiên trong cơ thề. Khi ảnh hưởng trong nhà, cơ sở làm ăn tương đối dễ hoá giải. Nhưng nếu ở trong cơ thể thì rất gian nan.
- Người xử dụng bùa chú, bùa hộ mạng, bùa may mắn, bùa làm ăn..., đốt uống bùa chú, dùng ngải ... Những thứ này đều là năng lực âm, năng lực của tinh linh ngũ hành, âm binh, âm thần có tốt có xấu hoặc cũng không xấu không tốt, tùy theo người dùng vào mục đích và chủ ý gì. Tốt cho người này, nhưng có thề xấu đối với người khác. Ban đầu có thể là tốt cho điều gì đó, nhưng về sau - lâu ngày trở nên những năng lực đối kháng lại sinh lực khí hay nội khí, thanh khí trong cơ thể. Những năng lực này cản trở, phá vỡ nguyên lý cân bằng âm dương, ngũ hành khí hoá tự nhiên trong cơ thề. Khi ảnh hưởng trong nhà, cơ sở làm ăn tương đối dễ hoá giải. Nhưng nếu ở trong cơ thể thì rất gian nan.
- Những người vô tình tiếp xúc với người có trược hay là trị bịnh cho người khác bằng cách đặt tay truyền năng lực, bị "trúng trược" khí (không phải lây bịnh) từ bịnh nhân, do không đủ tâm năng - khí năng - kỹ năng.
- Những nơi có năng lượng không tốt tiêu cực, âm khí, tà khí như rừng núi, đám tang, nghĩa địa, bệnh viện...
(Đặc biệt trong những trường hợp ở mức độ nghiêm trọng hơn, như người bị vong nhập, tiếp xúc với phần âm, bị thư ếm, tẩu hoả nhập ma là trược âm thuộc về bịnh "Thần Kinh Giả", sẽ được trình bày ở một bài viết khác - cách ngăn ngừa và chữa trị. Bài này chỉ nói về trược khí thông thường).
- Những nơi có năng lượng không tốt tiêu cực, âm khí, tà khí như rừng núi, đám tang, nghĩa địa, bệnh viện...
(Đặc biệt trong những trường hợp ở mức độ nghiêm trọng hơn, như người bị vong nhập, tiếp xúc với phần âm, bị thư ếm, tẩu hoả nhập ma là trược âm thuộc về bịnh "Thần Kinh Giả", sẽ được trình bày ở một bài viết khác - cách ngăn ngừa và chữa trị. Bài này chỉ nói về trược khí thông thường).
Nguyên nhân phát sinh từ bên trong bao gồm:
- Người đã từng bị bịnh trong quá khứ và đang bị bịnh.
- Những người tập luyện thiền, yoga, khí công ... không đúng cách, người tò mò tự ý khai mở luân xa cho mình, người tự học hàm thụ những thứ trên qua sách vở, internet mà không trực tiếp từ một vị thầy chân chính có kinh nghiệm.
- Các phương pháp có liên quan đến việc ếm khí, vận khí, dùng hình dẫn khí - dùng khí dẫn khí - dùng ý dẫn khí, vận hành tiểu chu thiên và đại chu thiên làm nghịch khí, loạn khí, tắc khí ... mất quân bình.
- Những người tập luyện thiền, yoga, khí công ... không đúng cách, người tò mò tự ý khai mở luân xa cho mình, người tự học hàm thụ những thứ trên qua sách vở, internet mà không trực tiếp từ một vị thầy chân chính có kinh nghiệm.
- Các phương pháp có liên quan đến việc ếm khí, vận khí, dùng hình dẫn khí - dùng khí dẫn khí - dùng ý dẫn khí, vận hành tiểu chu thiên và đại chu thiên làm nghịch khí, loạn khí, tắc khí ... mất quân bình.
Thanh khí, nội khí vốn là tốt đã được điển hóa, khí hóa trong cơ thể theo các vòng chu thiên và nhịp sinh học, là những dòng năng lượng luôn tuôn chảy nhịp nhàng hài hòa. Nhưng nếu vì lý do trở ngại nào đó sẽ bị bế tắc tạo ra "ao tù nước đọng" sinh ra trược khí. Nhất là những ai đã từng tập luyện, sau đó ngưng không còn tiếp tục nữa. Nguyên lý đơn giản, ý ở đâu là khí ở đó. Một khi việc luyện tập bị gián đoạn, chưa đạt được kết quả nào đó thì khí lực vẫn đang trong tình trạng bị ngưng trệ chưa thông để lại di chứng về sau - thông bất thống, thống bất thông. Ngay cả người được coi là đạt trong mức độ tương đối nào đó vẫn có thể bị trược. Người xưa nói bất cứ điều gì cũng có hai mặt - lợi bất cập hại là vậy.
Trược Khí Nằm Ở Đâu Trong Cơ Thể?
Trược khí có thể tích tụ ở bất cứ nơi nào trong cơ thể. Tuỳ theo loại trược khí nào, vì có rất nhiều loại và tính chất khác nhau, khó có thể mô tả hết được. Thông thường trược khí nằm trong các đường kinh khí, từ khí của thể phách tức là thể năng lực hay sinh lực; trong các đường kinh mạch, huyệt đạo. Khí lực là vô hình thì trược khí cũng vô hình, rất khó nhận biết đối với người thường. Người Trường Sinh Học có kinh nghiệm trị bịnh và có khả năng cảm khí nhậy bén có thể biết được khi ở gần người nào hoặc khi đặt tay trị bịnh.
Trong con người, tất cả các cơ phận và lục phủ ngũ tạng đều có âm dương, ngũ hành khí hoá, điển hóa. Khi trược tích tụ ở đâu sẽ làm bế tắc gây đau bịnh ở vùng đó. Trược ở trong kinh mạch, huyệt đạo có tầm tác hại rộng hơn bao gồm những bộ phận có liên hệ. Theo kinh nghiệm cho thấy nhiều khi trược ở nơi này mà làm đau bịnh ở vùng kia. Ví dụ trược khí tụ ở phần phía sau lưng, nhưng lại ảnh hưởng đến bộ phận tiêu hoá. Cách nhận biết trược nằm ở đâu và chữa trị như thế nào thuộc về kỹ thuật chuyên môn nên không trình bày ở đây.
Trong con người, tất cả các cơ phận và lục phủ ngũ tạng đều có âm dương, ngũ hành khí hoá, điển hóa. Khi trược tích tụ ở đâu sẽ làm bế tắc gây đau bịnh ở vùng đó. Trược ở trong kinh mạch, huyệt đạo có tầm tác hại rộng hơn bao gồm những bộ phận có liên hệ. Theo kinh nghiệm cho thấy nhiều khi trược ở nơi này mà làm đau bịnh ở vùng kia. Ví dụ trược khí tụ ở phần phía sau lưng, nhưng lại ảnh hưởng đến bộ phận tiêu hoá. Cách nhận biết trược nằm ở đâu và chữa trị như thế nào thuộc về kỹ thuật chuyên môn nên không trình bày ở đây.
Cảm Giác Khi Bị Trược
Khi người có trược, bị trúng trược sẽ có những biểu hiện và cảm giác như thế nào? Như những khúc quanh của dòng sông, hay một dòng nước chảy, nơi đó dễ bị tù đọng vì lực chảy bị cản trở không thông. Các khớp xương tay chân, các đốt xương cổ, xương sống, vai và các cơ bắp thường bị trược khí tích tụ nơi đó làm đau nhức, ê ẩm. Có thể cảm giác như đau nhức bình thường, cũng có thể làm khó chịu hơn như ể oái bời rời, tê buốt, nhói trong xương... ,nhức đầu, chống mặt, ớn lạnh xương sống, cảm thấy như bị cảm cúm, mất sức. Có rất nhiều cảm giác khác nhau, tuỳ theo loại trược và nơi nào trên cơ thể. Đó là những gì có thể cảm giác được bên ngoài chỉ là gây đau khó chịu không đáng ngại. Nhưng còn rất nhiều biểu hiện, sâu bên trong là nguyên nhân sâu xa gây ra nhiều chứng bịnh nghiêm trọng, nan y mà mình không ngờ tới, chính là do khí trược. Cho nên môn Trường Sinh Học thật kỳ diệu, dùng thanh khí từ vũ trụ để hóa giải trược khí - trị được gốc bịnh là vậy. Việc ngồi tĩnh tâm, tiếp nhận thanh khí, năng lượng vũ trụ qua hệ thống luân xa, quân bình khí huyết, đả thông những kinh mạch bị bế tắc do trược khí gây ra bịnh tật.
Viết đến đây, lòng thầm đa tạ Đức Tổ Sư Dasira Narada và các vị Tiền Bối đã có công phát triển môn Trường Sinh Học và cho con người nhận biết được về khí trược, vật chất trược và tư tưởng trược! Từ đó thấu đạt hơn về Ngũ Trược của nhà Phật. Tất cả đều do Nghiệp Lực sinh ra làm cho thân tâm chẳng được an lạc.
Tại Sao Có Người Bị Trược, Có Người Không?
Như trên đã có trình bày, ai cũng có trược. Vấn đề cần nêu ra là: Tại sao có người cảm nhận bị trược khí, có người không cảm nhận được? Có thể nói, chỉ là ít hay nhiều hoặc biết hay không biết về trược khí. Gọi là có hay không có trược, chỉ là mặt tương đối. Những ai có cơ thể khoẻ mạnh, nội khí, sinh lực dồi dào sung mãn có khả năng tránh bị trược xâm nhiễm và hóa giải được. Nhất là người Trường Sinh Học được khai mở luân xa và thiền tốt sẽ có một vòng thanh khí bảo vệ xunh quanh - "lớp áo Trường Sinh Học". Có trược gây đau nhức, mệt mỏi, khó chịu bình thường rồi sẽ qua đi nhanh chóng. Vì nội lực tự động hoá giải đẩy ra ngoài. Có trược ảnh hưởng nguy hại hơn, là nguyên nhân chính gây ra những chứng bịnh nan y trầm kha khó chữa trên thân vật lý. Có trược tác động đến thề cảm xúc làm bất an, bồn chồn, lo lắng, sầu muộn vô cớ. Có trược ảnh hưởng đến thể trí, tinh thần quên trước nhớ sau, lẫn thẩn trở nên bất bình thường.
Sống trên cõi trần đầy ô trược này, ví như người khách lữ hành đi trên con đường từ sinh đến tử, không làm sao tránh khỏi "bụi hồng trần" bám vào chiếc áo thể xác và các thể khác bằng nhiều loại trược khác nhau. Nếu trược khí thông thường nhẹ, ví như cát bụi thì phủi nhẹ sẽ bay đi, không đáng ngại. Nhưng có những trược khí mạnh - trọng trược, ví như bùn sình cần phải tẩy rửa. Mấy ai tránh được đau bịnh vì vật chất trược, khí trược? Trường Sinh Học quan tâm hơn cả là tư tưởng trược - chuyển hoá tâm. Đó mới là con đường phải đi và cần chú trọng trong khoảng đời vô thường ngắn ngủi còn lại. Chỉ có tránh được tư tưởng trược và ngũ trược như Đức Phật dạy mới giải trừ được nghiệp lực, nghiệp lực chính là cái kiếp trược và những thứ trược khác có từ vô minh và sinh ra trong vô minh. Người khoẻ mạnh, sống lâu có nhiều cơ hội phát triển tâm linh, tình thương; nếu có tâm đạo. Bằng không càng sống lâu, càng có nhiều sai lầm vướng mắc, đoạ lạc. Mục đích của Trường Sinh Học không phải kéo dài sự sống mà là sống có ý nghĩa và ra đi trong sự thanh thản, bình an!
Người Trường Sinh Học không phải chỉ biết cầu an cho bản thân mình, mà là cầu an cho người khác. Các Thầy và Những Anh Chị Em môn Trường Sinh Học trị bịnh trên khắp thế giới, có ai đi trên con đường cứu giúp tha nhân mà không từng "bị trúng trược"? Nếu mình có khả năng rước hết trược cho bịnh nhân khoẻ mạnh, có lẻ không từ nan. Huống hồ gì là "dính trược"? Cá nhân người viết cũng đã từng "te tua, tơi tả". Nên mới có chút xíu kinh nghiệm chia sẽ cho mọi người. Mỗi lần bị trúng trược thì cứ nhớ đến Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát. Có nơi nào trong Tam Giới có nhiều trọng trược, hắc ám hơn địa ngục? Có vị nào "bản lĩnh" dám như Ngài? Thật không dễ chịu lắm đâu! Cũng vì Ngài quá thương yêu chúng sinh!
Trược Đi Vào Và Ra Khỏi Cơ Thể Như Thế Nào?
Trược xâm nhập vào cơ thể bằng nhiều cách, tuỳ theo loại trược: Qua hơi thở, ăn uống, xúc chạm, tay chân nơi có lổ chân lông hay không; qua ý niệm, tư tưởng (kể cả trị bịnh từ xa); qua thể khí, thể sinh lực; các huyệt đạo, mạch nhâm ở phía trước và mạch đốc ở sau lưng. Trược có rung động cao đi vào từ trên đầu, rung động thấp đi từ chân tay, trược âm hay trược phần âm đi vào từ phía trước cơ thể...
Trược có thể thoát ra bất cứ nơi nào trên cơ thể, còn tuỳ theo loại trược. Dựa trên nguyên lý âm thăng dương giáng, thanh khí đi từ trên xuống, từ trong ra ngoài. Trược khí sẽ từ trong thoát ra ngoài da, từ trên đầu đi xuống, theo các đường kinh mạch kinh khí xuống hai tay và chân để thoát ra ngoài. Nhất là những nơi không có lổ chân lông như bàn tay bàn chân, đầu các ngón. Đặc biệt là hai ngón tay cái, chân cái nơi có những đường kinh khí trọng yếu. Trược cũng có thề thoát ra hay được hoá giải ở những luân xa, vì luân xa có khả năng xoay hai chiều, tiếp nhận thanh khí, đẩy trược khí - những năng lực tiêu cực, và quân bình nội khí ... trong cơ thể.
Cách Hoá Giải Và Đẩy Trược Thoát Ra Ngoài
Từ phần này trở đi, chỉ dành riêng cho những đồng môn Trường Sinh Học đã được khai mở luân xa và luân xa vẫn còn đang hoạt động.
Tĩnh Tâm Hay Thiền - Phương Pháp Trường Sinh Học
Ngồi thiền hay tĩnh tâm theo môn Trường Sinh Học có thể giúp quân bình ổn định khí huyết và giúp đẩy trược khí ra ngoài, khỏe mạnh và nhiều lợi ích khác. Nhờ vào thanh khí được tiếp nhận qua các luân xa. Mỗi luân xa có khả năng cân bằng, khí hoá và đẩy trược ra ngoài trong phạm vi chức năng của nó.
Cần lưu ý rằng, mỗi người đến với môn Trường Sinh Học với những lý do và mục đích khác nhau. Vì vậy phương cách ngồi thiền có thể cũng khác, tuỳ theo sự hướng dẫn và lãnh hội về môn học này. Mặc dù từ khởi thuỷ khi được truyền dạy từ Nhị Tổ Narada Mahathera cho những Vị Tiền Bối là như nhau. Ngày nay có sự thay đổi và chịu ảnh hưởng các môn thiền khác và cách chữa trị, trong đó có cả phương pháp Reiki của Nhật Bản.
Nếu những ai nghĩ rằng, việc tĩnh tâm với mục đích duy nhất là để đưa trược khí ra ngoài, mau chóng lành bịnh. Sau đây là vài lời khuyên dành cho những ai nghĩ rằng mình có trược khí. Trước hết vẫn cứ giữ cách thiền như đã học. Việc ngồi tĩnh tâm chủ yếu làm sao thấy thật thoải mái, không gò bó ràng buộc. Ngồi trên ghế, thẳng lưng. Nên để ngửa hai tay trên hai đầu gối, không được giữ hai ngón tay trỏ và cái lại với nhau hay bắt ấn gì cả, hai chân để chạm nền nhà. Như vậy trược khí, nếu có sẽ được thoát ra ngoài dễ dàng và không quay trở lại cơ thể. Chính năng lượng vũ trụ, thanh khí đi vào từ các luân xa và chính luân xa mới giúp tái lập sự mất quân bình khí huyết giúp mau lành bịnh chứ không phải cách ngồi hoặc những hình thức phức tạp khác. Hãy trả cơ thể mình trở lại sự tự nhiên vốn có của nó. Và giữ cho tâm không bị áp lực và sự mong cầu bất cứ điều gì, kể cả cầu mong năng lượng, mau hết bịnh. Nhớ là, Tâm bình thì khí hoà, bịnh tật sẽ mau chóng được chữa lành bởi chính khả năng sẳn có của mình mà tạo hoá đã sinh ra. Và còn tuỳ theo nghiệp lực, nhân quả, luân hồi.
Cách ngồi thiền như vừa nêu, nếu không thường xuyên áp dụng thì cũng nên thỉnh thoảng. Nhất là người nào bị trúng trược hay có trược khí nhiểu, người bịnh Thần Kinh Giả!
Nếu thiền mà vẫn không thấy ra trược, như cảm thấy có điện hay gì đó chạy ra tay ra chân, tê buốt, nhói rần, ấm, nóng, lạnh, trì nặng ...Có khi trược khí phóng ra từng đường đau nhói như kim châm, hoặc chỉ râm râm. Như vậy có thể là ít bị trược, trược nhẹ nên không cảm giác. Có thể thiền năng lực vào không đủ mạnh để tống khứ trược khí ra. Người tĩnh tâm đạt, đến một lúc nào đó sẽ không còn cảm giác như điện chạy, kiến bò, ngứa ... Có hàng trăm cảm giác khác nhau. Khi có cảm giác khó chịu là trong người có nhiều trược khí hay có nhiều chổ bế tắc chưa thông. Cần tinh tấn, kiên trì thiền nhiều thêm. Cho đến khi ngồi thiền thấy không còn hay rất ít cảm giác như trước nữa là tốt. Nhiều người không hiểu nghĩ rằng, có cảm giác nhiều tức là năng lượng vô nhiều. Điều này chỉ đúng một phần là cho biết người đó thiền được, có năng lượng vào, và có trược khí, bế tắc nên cơ thể có phản ứng bằng những cảm giác rất tự nhiên. Người thiền tốt, lâu ngày sẽ nhận được những nguồn thanh khí cao hơn. Thân thể nhẹ nhàng, an lạc... Không còn những cảm giác như trước, tưởng là luân xa của mình bị đóng. Nhưng không phải, năng lực thanh cao làm cho mình khó cảm nhận mà thôi. Nếu có cảm nhận sẽ là nhè nhẹ, mác mác, quay quay trên các luân xa, đôi khi rất mạnh và làm dễ chịu thoải mái vô cùng... Còn rất nhiều cảm nhận vi tế khác nữa. Bây giờ lo giải quyết trược khí trước.
CÁCH XẢ TRƯỢC
Tự xả trược là hình thức, biện pháp thúc đẩy trược khí ra ngoài - một cách không tự nhiên. Vì vậy tuyệt đối không được lạm dụng. Dưới hình thức thúc ép này, trược khí bị đầy ra ngoài và thanh khí, nội khí của mình cũng theo ra luôn sẽ làm hao sức - mất sức - kiệt sức. Đừng để "mất cả chài lẫn lưới"! Đừng quan niệm rằng, nếu mất lại thiền tiếp sẽ bù lại! Rất khó bù lại một khi nội khí mất quá nhiều. Vì nội khí trong cơ thể không phải chỉ có thiền mà có, mà nhờ tinh - khí -thần và dinh dưỡng đủ thứ. Lưu ý: phụ nữ có thai không nên xả trược, có thể bị sẩy thai! Người bị bịnh nặng, hoặc người có cơ thể quá suy nhược ốm yếu, không nên xã trược! Phương pháp xả trược này chỉ dành cho người Trường Sinh Học đã được khai mở luân xa và luân xa vẫn còn đang hoạt động (chưa bị bít).
Thời gian xả trược cho người bị bịnh thông thường, người có thể lực không quá yếu một tuần một lần, mỗi lần không quá 10 phút. Không có nghĩa là tuần nào cũng xả, chỉ khi cần thiết.
Người tương đối có thề lực khá, người bị trúng trược vì trị bịnh giúp người khác, mỗi tuẩn hai lần, mỗi lần không quá 15 phút. Riêng những ai trị bịnh mà bị trúng trược nặng, trược phần âm, bùa ngãi, thư ếm thì cũng không nên xả trược lâu hơn hạn định. Cần thiển nhiều gấp hai, ba lần thường ngày. Nếu có thể nhờ người cấp cao hơn hoặc có thể bằng cấp của mình mà có năng lực mạnh nhờ "đẩy" hoặc "khoá - rút".
Người tương đối có thề lực khá, người bị trúng trược vì trị bịnh giúp người khác, mỗi tuẩn hai lần, mỗi lần không quá 15 phút. Riêng những ai trị bịnh mà bị trúng trược nặng, trược phần âm, bùa ngãi, thư ếm thì cũng không nên xả trược lâu hơn hạn định. Cần thiển nhiều gấp hai, ba lần thường ngày. Nếu có thể nhờ người cấp cao hơn hoặc có thể bằng cấp của mình mà có năng lực mạnh nhờ "đẩy" hoặc "khoá - rút".
Có vài cách xả trược, ở đây sẽ hướng dẫn hai cách thông dụng hiện nay:
I. CÁCH XẢ TRƯỢC THỨ NHẤT
- Dành Cho Người Nam
1. Phải ngồi thiền trước cho có năng lực dùng để xả trược. Sau khi thiền xong.
2. Ngồi thoải mái trên ghế, có lưng dựa hoặc không, thẳng lưng hay có thể dựa nhẹ. Chân chạm nền nhà.
3. Lấy bàn tay trái, ôm choàng phía ngoài bàn tay phải. Cả hai tay để ngửa phía dưới bụng, ngang đùi.
4. Lấy ngón chân cái của bàn chân trái, đè chồng nhẹ lên ngón cái của bàn chân phải.
5. Mắt vẫn mở, hít vô bằng mũi, thở ra bằng miệng, ít nhất là 3 lần hoặc nhiều hơn.
6. Nhắm mắt lại, tập trung ý nghĩ lên luân xa số 7, khoảng 1 phút.
7. Tập trung ý nghĩ vào hai ngón chân cái, nơi giao nhau.
8. Cố gắng tập trung liên tục vào hai ngón chân cái theo khoảng thời gian quy định như trên.
9. Mở mắt ra, chập hai lòng bàn tay lại, hít vào bằng mũi thở ra bằng miệng ít nhất là 3 lần trở lên. Xong một lần xả trược cho người Nam.
2. Ngồi thoải mái trên ghế, có lưng dựa hoặc không, thẳng lưng hay có thể dựa nhẹ. Chân chạm nền nhà.
3. Lấy bàn tay trái, ôm choàng phía ngoài bàn tay phải. Cả hai tay để ngửa phía dưới bụng, ngang đùi.
4. Lấy ngón chân cái của bàn chân trái, đè chồng nhẹ lên ngón cái của bàn chân phải.
5. Mắt vẫn mở, hít vô bằng mũi, thở ra bằng miệng, ít nhất là 3 lần hoặc nhiều hơn.
6. Nhắm mắt lại, tập trung ý nghĩ lên luân xa số 7, khoảng 1 phút.
7. Tập trung ý nghĩ vào hai ngón chân cái, nơi giao nhau.
8. Cố gắng tập trung liên tục vào hai ngón chân cái theo khoảng thời gian quy định như trên.
9. Mở mắt ra, chập hai lòng bàn tay lại, hít vào bằng mũi thở ra bằng miệng ít nhất là 3 lần trở lên. Xong một lần xả trược cho người Nam.
- Dành Cho Người Nữ
1. Phải ngồi thiền trước cho có năng lực dùng để xả trược. Sau khi thiền xong.
2. Ngồi thoải mái trên ghế, có lưng dựa hoặc không, thẳng lưng hay có thể dựa nhẹ. Chân chạm nền nhà.
3. Lấy bàn tay phải, ôm choàng phía ngoài bàn tay trái. Cả hai tay để ngửa phía dưới bụng, ngang đùi.
4. Lấy ngón chân cái của bàn chân phải, đè chồng nhẹ lên ngón cái của bàn chân trái.
5. Mắt vẫn mở, hít vô bằng mũi, thở ra bằng miệng, ít nhất là 3 lần hoặc nhiều hơn.
6. Nhắm mắt lại, tập trung ý nghĩ lên luân xa số 7, khoảng 1 phút.
7. Tập trung ý nghĩ vào hai ngón chân cái, nơi giao nhau.
8. Cố gắng tập trung liên tục vào hai ngón chân cái theo khoảng thời gian quy định như trên.
9. Mở mắt ra, chập hai lòng bàn tay lại, hít vào bằng mũi thở ra bằng miệng ít nhất là 3 lần trở lên. Xong một lần xả trược cho người Nữ
2. Ngồi thoải mái trên ghế, có lưng dựa hoặc không, thẳng lưng hay có thể dựa nhẹ. Chân chạm nền nhà.
3. Lấy bàn tay phải, ôm choàng phía ngoài bàn tay trái. Cả hai tay để ngửa phía dưới bụng, ngang đùi.
4. Lấy ngón chân cái của bàn chân phải, đè chồng nhẹ lên ngón cái của bàn chân trái.
5. Mắt vẫn mở, hít vô bằng mũi, thở ra bằng miệng, ít nhất là 3 lần hoặc nhiều hơn.
6. Nhắm mắt lại, tập trung ý nghĩ lên luân xa số 7, khoảng 1 phút.
7. Tập trung ý nghĩ vào hai ngón chân cái, nơi giao nhau.
8. Cố gắng tập trung liên tục vào hai ngón chân cái theo khoảng thời gian quy định như trên.
9. Mở mắt ra, chập hai lòng bàn tay lại, hít vào bằng mũi thở ra bằng miệng ít nhất là 3 lần trở lên. Xong một lần xả trược cho người Nữ
II. CÁCH XẢ TRƯỢC THỨ HAI
- Dành Cho Người Nam
1. Phải ngồi thiền trước cho có năng lực dùng để xả trược. Sau khi thiền xong.
2. Ngồi thoải mái trên ghế, có lưng dựa hoặc không, thẳng lưng hay có thể dựa nhẹ, chân chạm nền nhà.
3. Lấy bàn tay trái, ôm choàng qua đầu vai phải. Tay phải để ngửa trên đùi. (Hoặc là tay phải có thể buông thỏng để dọc theo đùi. Nếu để tay như vậy trược khí nếu ra từ lòng bàn tay sẽ dễ quay ngược vào đùi).
4. Lấy ngón chân cái của bàn chân trái, đè chồng nhẹ lên ngón cái của bàn chân phải.
5. Mắt vẫn mở, hít vô bằng mũi, thở ra bằng miệng, ít nhất là 3 lần hoặc nhiều hơn.
6. Nhắm mắt lại, tập trung ý nghĩ lên luân xa số 7, khoảng 1 phút.
7. Tập trung ý nghĩ vào hai ngón chân cái, nơi giao nhau.
8. Cố gắng tập trung liên tục vào hai ngón chân cái theo khoảng thời gian quy định như trên.
9. Mở mắt ra, chập hai lòng bàn tay lại, hít vào bằng mũi thở ra bằng miệng ít nhất là 3 lần trở lên. Xong một lần xả trược dành cho người Nam.
2. Ngồi thoải mái trên ghế, có lưng dựa hoặc không, thẳng lưng hay có thể dựa nhẹ, chân chạm nền nhà.
3. Lấy bàn tay trái, ôm choàng qua đầu vai phải. Tay phải để ngửa trên đùi. (Hoặc là tay phải có thể buông thỏng để dọc theo đùi. Nếu để tay như vậy trược khí nếu ra từ lòng bàn tay sẽ dễ quay ngược vào đùi).
4. Lấy ngón chân cái của bàn chân trái, đè chồng nhẹ lên ngón cái của bàn chân phải.
5. Mắt vẫn mở, hít vô bằng mũi, thở ra bằng miệng, ít nhất là 3 lần hoặc nhiều hơn.
6. Nhắm mắt lại, tập trung ý nghĩ lên luân xa số 7, khoảng 1 phút.
7. Tập trung ý nghĩ vào hai ngón chân cái, nơi giao nhau.
8. Cố gắng tập trung liên tục vào hai ngón chân cái theo khoảng thời gian quy định như trên.
9. Mở mắt ra, chập hai lòng bàn tay lại, hít vào bằng mũi thở ra bằng miệng ít nhất là 3 lần trở lên. Xong một lần xả trược dành cho người Nam.
- Dành Cho Người Nữ
1. Phải ngồi thiền trước cho có năng lực dùng để xả trược.
2. Ngồi thoải mái trên ghế, có lưng dựa hoặc không, thẳng lưng hay có thể dựa nhẹ, chân chạm nền nhà.
3. Lấy bàn tay phải, ôm choàng qua đầu vai bên trái. Tay trái để ngửa trên đùi. (Hoặc là tay trái có thể buông thỏng để dọc theo đùi. Nếu để tay như vậy trược khí nếu ra từ lòng bàn tay sẽ dễ quay ngược vào đùi).
4. Lấy ngón chân cái của bàn chân phải, đè chồng nhẹ lên ngón cái của bàn chân trái.
5. Mắt vẫn mở, hít vô bằng mũi, thở ra bằng miệng, ít nhất là 3 lần hoặc nhiều hơn.
6. Nhắm mắt lại, tập trung ý nghĩ lên luân xa số 7, khoảng 1 phút.
7. Tập trung ý nghĩ vào hai ngón chân cái, nơi giao nhau.
8. Cố gắng tập trung liên tục vào hai ngón chân cái theo khoảng thời gian quy định như trên.
9. Mở mắt ra, chập hai lòng bàn tay lại, hít vào bằng mũi thở ra bằng miệng ít nhất là 3 lần trở lên. Xong một lần xả trược dành cho người Nữ.
2. Ngồi thoải mái trên ghế, có lưng dựa hoặc không, thẳng lưng hay có thể dựa nhẹ, chân chạm nền nhà.
3. Lấy bàn tay phải, ôm choàng qua đầu vai bên trái. Tay trái để ngửa trên đùi. (Hoặc là tay trái có thể buông thỏng để dọc theo đùi. Nếu để tay như vậy trược khí nếu ra từ lòng bàn tay sẽ dễ quay ngược vào đùi).
4. Lấy ngón chân cái của bàn chân phải, đè chồng nhẹ lên ngón cái của bàn chân trái.
5. Mắt vẫn mở, hít vô bằng mũi, thở ra bằng miệng, ít nhất là 3 lần hoặc nhiều hơn.
6. Nhắm mắt lại, tập trung ý nghĩ lên luân xa số 7, khoảng 1 phút.
7. Tập trung ý nghĩ vào hai ngón chân cái, nơi giao nhau.
8. Cố gắng tập trung liên tục vào hai ngón chân cái theo khoảng thời gian quy định như trên.
9. Mở mắt ra, chập hai lòng bàn tay lại, hít vào bằng mũi thở ra bằng miệng ít nhất là 3 lần trở lên. Xong một lần xả trược dành cho người Nữ.
Lưu ý: Hai cách xả trược trên, hay là cách nào khác đi chăng nữa, trông có vẻ khác nhau. Nhưng cũng đều tuân theo cùng một nguyên lý:
- Thiền nhiều hơn để có đủ năng lực đẩy trược khí ra.
- Mắt mở, hít thở ít nhất 3 lần trở lên để kích hoạt hệ thống luân xa.
- Tập trung vào luân xa 7 khoảng một phút là để khởi động năng lực (thế năng sinh công) theo thứ tự hàng dọc từ trên xuống dưới để đẩy trược khí đi xuống hai tay hoặc hai chân (chỉ có xả trược mới tập trung luân xa 7 khoảng một phút. Còn trong lúc ngồi thiền để thu năng lượng thì không được tập trung vào luân xa 7 hay bất cứ luân xa nào khác. Chỉ tập trung trên đỉnh đầu. Nghĩa là, tuy đỉnh đầu cũng là vị trí của luân xa 7. Nhưng tâm ý không nghĩ về luân xa 7 mà chỉ nghĩ là đỉnh đầu).
- Trong suốt thời gian xả trược, tâm ý luôn nghĩ tới hai đầu ngón chân để năng lực theo ý mà đẩy trược thoát ra ngoài.
- Mắt mở, hít thở ít nhất 3 lần trở lên để kích hoạt hệ thống luân xa.
- Tập trung vào luân xa 7 khoảng một phút là để khởi động năng lực (thế năng sinh công) theo thứ tự hàng dọc từ trên xuống dưới để đẩy trược khí đi xuống hai tay hoặc hai chân (chỉ có xả trược mới tập trung luân xa 7 khoảng một phút. Còn trong lúc ngồi thiền để thu năng lượng thì không được tập trung vào luân xa 7 hay bất cứ luân xa nào khác. Chỉ tập trung trên đỉnh đầu. Nghĩa là, tuy đỉnh đầu cũng là vị trí của luân xa 7. Nhưng tâm ý không nghĩ về luân xa 7 mà chỉ nghĩ là đỉnh đầu).
- Trong suốt thời gian xả trược, tâm ý luôn nghĩ tới hai đầu ngón chân để năng lực theo ý mà đẩy trược thoát ra ngoài.
- Trong cơ thể con người nói chung, phần trên đầu và phân nữa trên thân người là dương tính, phần phía ngang thân người trở xuống là âm tính. Ngồi thẳng lưng, đầu và chân chạm nền nhà là cho toàn bộ cơ thể - Nhân được kết nối với Thiên Địa tuần hoàn. Trong đó Thiên là dương tính, Địa là âm tính, Nhân là con người có cả hai dương và âm. Trên kết nối với trời dưới kết nối với đất để âm dương luôn được giao hoà.
- Trên cơ thể, phần phía sau lưng dương tính, phía trước âm tính.
- Bên trái dương tính, bên phải âm tính.
- Phần phía ngoài da sậm màu dương tính, phần da trắng, màu nhạt hơn là âm tính.
Nên khi cần xả trược, ngoài việc "đầu đội trời, chân đạp đất" để kết nối thiên địa - âm dương theo chiều dọc ra, còn phải kết nối dương bên trái với âm bên phải theo chiều ngang. Hãy để ý khi người Nam hay người Nữ dùng lòng bàn tay, phần da nhạt màu - âm ôm phía ngoài mu bàn tay, phần da sậm màu - dương. Như vậy là đang kết nối âm dương theo nguyên tắc: phần âm tiếp xúc với phần dương. Dưới hai ngón chân cái cũng như vậy, phần dưới ngón chân cái là âm, được đè lên trên để tiếp xúc với phần dương tạo sự kết nối dòng năng lực âm dương trong cơ thề. Nguyên tắc này cũng giống như bên điện học, hai cục pin phải tiếp nối âm với dương. Vì vậy, hai cách xả trược trên là như nhau. Tuỳ thích, chọn cho mình cách nào thoải mái, dễ làm là được.
- Bên trái dương tính, bên phải âm tính.
- Phần phía ngoài da sậm màu dương tính, phần da trắng, màu nhạt hơn là âm tính.
Nên khi cần xả trược, ngoài việc "đầu đội trời, chân đạp đất" để kết nối thiên địa - âm dương theo chiều dọc ra, còn phải kết nối dương bên trái với âm bên phải theo chiều ngang. Hãy để ý khi người Nam hay người Nữ dùng lòng bàn tay, phần da nhạt màu - âm ôm phía ngoài mu bàn tay, phần da sậm màu - dương. Như vậy là đang kết nối âm dương theo nguyên tắc: phần âm tiếp xúc với phần dương. Dưới hai ngón chân cái cũng như vậy, phần dưới ngón chân cái là âm, được đè lên trên để tiếp xúc với phần dương tạo sự kết nối dòng năng lực âm dương trong cơ thề. Nguyên tắc này cũng giống như bên điện học, hai cục pin phải tiếp nối âm với dương. Vì vậy, hai cách xả trược trên là như nhau. Tuỳ thích, chọn cho mình cách nào thoải mái, dễ làm là được.
- Nam Tả - Nữ Hữu. Tất cả hai cách xả trược giữa người Nam và người Nữ đều cùng một nguyên lý. Chỉ có khác duy nhất một điều là Nữ làm ngược lại với Nam, theo nguyên tắc Nam Tả - Nữ Hữu, đàn ông bên trái, đàn bà bên phải. Không được làm sai hay nhầm lẫn. Vì Nam có dương tính hơn, cần phải dùng tay trái, chân trái dương để kết nối với âm theo thế chủ động (thế năng sinh công). Nữ có âm tính hơn, nên dùng tay phải, chân phải để kết nối với dương theo thế chủ động (thế năng sinh công). Như vậy sẽ được thuận theo lẻ tự nhiên, Trời - Đất, Âm - Dương, Nam - Nữ.
-----------
-----------
Hướng dẫn cách xả trược Trường Sinh Học cho cả nam và nữ
Trong Trường Sinh học gồm có 3 loại trược là: Khí trược, vật chất trược, tư tưởng trược. Trong đó, khí nhược là những năng lượng xấu gây ảnh hưởng tới thể xác và tinh thần chúng ta. Biểu hiện khi bạn bị nhiễm khí trược (dính trược) là đau mỏi toàn thân, đau vùng bụng và nổi rõ hai gân cổ phía sau… Đôi khi y học hiện đại cũng không thể giúp chữa trị hay giải trừ khí trược. Lúc này, bạn có thể áp dụng 2 cách xả trược trường sinh học để đẩy tà khí ra bên ngoài.
Cách xả trược trường sinh học thứ nhất
- Bước 1: Trước tiên, bạn ngồi thiền để có năng lực xả trược trong thời gian 60 phút.
- Bước 2: Bạn ngồi trên ghế, có thể trong tư thế thẳng lưng hoặc dựa nhẹ vào thành ghế, chân chạm sàn.
- Bước 3: Đối với nam, bạn lấy tay trái nắm phía sau tay phải rồi để 2 tay ngửa dưới bụng, ngang đùi. Đối với nữ, bạn lấy bàn tay phải nắm phía phía sau bàn tay trái; cả 2 tay để ngửa dưới dụng và ngang đùi.
- Bước 4: Tiếp theo, đối với nam, bạn dùng ngón cái chân trái chồng nhẹ lên ngón cái chân phải. Đối với nữ, bạn lấy ngón chân cái chân phải chồng nhẹ lên ngón cái của chân trái.
- Bước 5: Mắt bạn vẫn mở, dùng mũi để hít vào, dùng miệng để thở ra khoảng hơn 3 lần rồi từ từ nhắm mắt, tập trung lên luân xa số 7 trong 1 phút. Đặc biệt, bạn phải liên tục tập trung vào 2 ngón cái
- Bước 6: Cuối cùng, bạn mở mắt, chập 2 lòng bàn tay vào nhau. Sau đó, bạn tiếp tục dùng mũi hít vào và dùng miệng thở ra ít nhất 3 lần.

Bạn phải ngồi thiền 60 phút trước khi tiến hành xả trược
Cách xả trược trường sinh học thứ hai
- Bước 1: Cũng tương tự như cách thứ nhất, bạn phải ngồi thiền trong 60 phút.
- Bước 2: Bạn ngồi thiền trên ghế, dựa nhẹ lưng ra thành ghế hoặc ngồi thẳng, chân chạm vào sàn.
- Bước 3: Đối với nam, bạn đặt bàn tay trái ôm qua đầu vai phải còn tay phải thì để ngửa trên đùi. Đối với nữ, bạn lấy tay phải ôm choàng qua đầu vai trái; tay trái để ngửa trên đùi.
- Bước 4: Đối với nam, bạn lấy ngón chân cái của chân trái chồng nhẹ lên ngón cái của chân phải. Đối với nữ, bạn lấy ngón chân cái bàn chân phải chồng nhẹ lên ngón cái chân trái.
- Bước 5: Bạn dùng mũi hít vào, dùng miệng thở ra ít nhất 3 lần.
- Bước 6: Lúc này bạn mới được nhắm mắt, tập trung nghĩ lên luân xa 7 và nơi giao nhau của 2 ngón chân cái trong vòng 1 phút.
- Bước 7: Bạn mở mắt ra, chập 2 lòng bàn tay vào nhau rồi dùng mũi hít vào, dùng miệng thở ra ít nhất 3 lần.

Cách xả trược này phát huy tác dụng với cả nam và nữ
Lưu ý khi xả trược Trường Sinh học
Bạn phải thực hiện các bước xả trược liên tục, không được ngắt quãng hay bỏ qua bất cứ bước nào. Bạn không nên tập dưới phòng điều hòa vì nhiệt độ thấp có thể khiến bạn bị lạnh và không thể tập trung được. Bạn cũng nên loại bỏ các yếu tố có thể khiến mình bị phân tâm như tiếng ồn, côn trùng. Ngoài ra, bạn có thể rủ những người có kinh nghiệm tập cùng để được họ chỉ dạy và theo dõi kết quả sau vài buổi xả trược.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét