LINH AN KHI DAO

Breaking

Thứ Sáu, 17 tháng 4, 2020

OSHO - ĐI TÌM ĐIỀU HUYỀN BÍ - TẬP 1.1



Chương 9. Kundalini, Shaktipat và ân huệ

Người hỏi: Việc thở và việc hỏi câu hỏi "Tôi là ai?" cần mãnh liệt thế nào, khi có liên quan tới quá trình thức tỉnh của kundalini và sự xuyên thấu của nó vào các trung tâm khác hay các luân xa của thân thể?

Có mối quan hệ, và mối quan hệ sâu sắc tại đó, giữa hai quá trình này. Trong thực tế, chính hơi thở nối linh hồn với thân thể; hơi thở tạo nên cây cầu giữa cả hai. Đó là lí do tại sao với việc dừng lại của hơi thở thì cuộc sống dừng hiện hữu. Cuộc sống cứ tiếp diễn cho dù não bị hỏng. Người ta có thể tồn tại ngay cả khi mắt hay các chi khác của thân thể bị cắt rời. Nhưng nếu hơi thở dừng lại, cuộc sống sẽ đi tới chấm dứt ngay lập tức. Việc thở thực sự nối thân thể với linh hồn.
Và chính tại chỗ tiếp nối của linh hồn và thân thể này, tại điểm gặp gỡ của chúng, là nơi năng lượng được biết là kundalini thường trú. Kundalini, hay bất kì cái tên nào bạn đặt cho nó, đều là cùng năng lượng, và nó nằm tại chỗ tiếp nối của thân thể và linh hồn.
Do đó năng lượng này có hai dạng. Khi năng lượng này tuôn chảy tới thân thể, nó trở thành dục; và khi nó tuôn chảy tới linh hồn, nó trở thành kundalini hay bất kì cái gì bạn gọi nó. Và năng lượng này đi xuống khi di chuyển vào thân thể và nó đi lên khi đi vào linh hồn. Cho nên trong khi kundalini là năng lượng đi lên, thì dục là năng lượng đi xuống. Nhưng chỗ của kundalini, chỗ của vị trí của nó, bị gõ vào và bị chuyển động bởi việc thở, thở sâu và nhanh.
Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng bạn không thể giữ được hơi thở mình lặng lẽ khi làm tình. Làm tình đem tới thay đổi ngay lập tức trong chuyển động của hơi thở. Ngay khi người ta bị kích động dục, hơi thở dồn dập lên ngay. Bởi vì chừng nào việc thở còn chưa đập vào trung tâm này, thì năng lượng dục không thể chuyển động được nếu không bị đập vào và bị kích thích bởi việc thở, giao hợp dục là không thể được. Theo cùng cách này, samadhi hay cực lạc là không thể được chừng nào kundalini này còn chưa bị đập và bị kích thích bởi việc thở.
Samadhi là đỉnh, điểm cao nhất của năng lượng đi lên, và dục hành động như điểm thấp nhất, điểm thấp nhất của năng lượng đi xuống. Nhưng việc thở làm việc tương đương theo cả hai hướng.
Thử điều đó đi. Nếu tâm trí bạn đầy dục, thảnh thơi việc thở của bạn, làm chậm dần nhịp của nó. Hay nếu tâm trí đang trong nắm bắt của giận dữ hay bất kì ham muốn dục nào, làm chậm nhịp thở, thảnh thơi nó, và bạn sẽ thấy dục, giận dữ, hay bất kì cái gì, đều rời bỏ bạn. Chúng đơn giản không thể kéo dài được, bởi vì năng lượng duy trì chúng tới qua việc thở. Không được kích thích bằng việc thở, năng lượng này không thể làm việc được. Do đó không ai có thể giận dữ nếu người đó giữ việc thở của mình chậm, vững chắc và được thảnh thơi. Và điều đó sẽ là phép màu, không gì ngoài phép màu tuyệt đối, nếu người ta có thể giận dữ trong khi thở theo cách rất chậm và thảnh thơi. Điều đó là không thể được. Giận dữ biến mất ngay khi việc thở được làm chậm lại và thảnh thơi. Mà người ta cũng không thể bị kích động dục trong trạng thái thở chậm và thảnh thơi. Ham muốn dục biến mất với việc làm chậm hơi thở. Cho nên làm chậm lại và thảnh thơi việc thở của bạn khi tâm trí đầy dục hay giận dữ hay bất kì ham muốn nào khác.
Và khi tâm trí bạn bị khao khát, thèm muốn về thiền chiếm giữ, hãy tăng tốc nhịp thở của bạn và gõ vào kundalini bằng thở sâu. Bởi vì với khao khát này bên trong và việc gõ vào thở, năng lượng chắc chắn bắt đầu cuộc hành trình thiền.
Thở sâu có tác động sâu sắc lên kundalini. Pranayama, khoa học về việc thở yoga, không phải đã được phát hiện ra một cách không cần thiết. Qua những thực nghiệm lâu dài và điều tra và qua việc kéo dài những kinh nghiệm người ta biết rằng rất nhiều điều có thể được thực hiện với sự giúp đỡ của việc thở và việc gõ vào kundalini. Thực sự nhiều điều có thể được thực hiện qua thở sâu và nhanh. Và việc gõ càng mạnh và nhanh, càng làm cho chuyển động của năng lượng nhanh. Và chừng nào còn có liên quan tới người bình thường chúng ta, những người có kundalini còn ngủ trong vô số kiếp, nhu cầu về việc gõ mạnh, gõ bằng tất cả mọi sức mạnh của chúng ta còn lớn hơn nhiều.
Việc thở đập vào kundalini, trung tâm cơ bản của năng lượng. Và khi kinh nghiệm của bạn sâu sắc hơn bạn sẽ thấy rõ ràng ngay cả khi nhắm mắt đích xác chỗ mà việc thở đập vào. Cho nên điều thường xảy ra là với việc gõ mạnh qua thở sâu người ta bị khuấy động về dục. Điều đó xảy ra thường xuyên thế bởi vì thân thể bạn chỉ quen với kinh nghiệm này, kinh nghiệm về dục qua thở sâu. Cho nên theo thói quen thân thể bắt đầu đi theo hướng quen thuộc của dục bất kì khi nào bạn thở sâu và nhanh. Và đó là lí do tại sao nhiều người tìm kiếm - cả đàn ông lẫn đàn bà - đều có cảm giác rằng thở sâu kích thích ngay vào trung tâm dục của mình.
Nhiều người đã có kinh nghiệm tương tự với sự hiện diện của Gurdjieff, và điều đó cũng là tự nhiên. Nhiều đàn bà nghĩ rằng ngay khi họ tới ông ấy, thì trung tâm dục của họ bị đụng vào và bị kích thích. Điều này là tự nhiên. Nhưng bởi vì điều đó mà Gurdjieff đã bị hiểu lầm nhiều và bị phỉ báng; mặc dầu ông ấy không có lỗi chút nào. Điều đáng trách không nằm ở nhà ông ấy. Sự kiện là ở chỗ các rung động xung quanh người có kundalini được thức dậy, mạnh tới mức họ bắt đầu ảnh hưởng tới kundalini của bạn ngay khi bạn lại gần người đó. Và vì kundalini riêng của bạn ngủ gần trung tâm dục, nên những rung động của người đã thức tỉnh đập vào bạn tại trung tâm dục của bạn. Đó là cách nó đã xảy ra tại lần tiếp xúc đầu tiên.
Việc thở sâu và nhanh nhất định có tác động sâu sắc lên kundalini. Và tất cả các trung tâm, điều bạn gọi là các luân xa, thì không là gì ngoài những chỗ dừng cho kundalini trên cuộc hành trình của nó. Đây là những trung tâm mà kundalini sẽ đi qua. Thông thường có nhiều trung tâm như thế và có những ước lượng khác nhau về chúng. Nhưng nói một cách đại thể, bẩy trung tâm quan trọng nhất nơi kundalini, khi đi lên và xuống, rất có thể dừng lại và nghỉ một chốc. Và nó sẽ có tác động của nó khi nó tiếp xúc với những chỗ này. Và những tác động đầu tiên của nó sẽ được cảm nhận ở trung tâm là trung tâm hoạt động nhiều nhất của bạn. Chẳng hạn, nếu một người thường xuyên làm việc bằng bộ não, thì với việc thở sâu đầu người đó sẽ trở nên rất nặng. Nó sẽ là như vậy bởi vì trung tâm não người đó ngẫu nhiên là trung tâm hoạt động nhất của người đó. Tác động đầu tiên của việc thở sẽ được cảm thấy trên đầu người đó, trung tâm hoạt động của người đó, và nó sẽ trở thành nặng. Và nếu người đó dâm dục, thì trung tâm dục của người đó sẽ bị kích thích ngay lúc đầu tiên. Tương tự một người đàn ông đang yêu sẽ thấy tình yêu của mình được kích thích, được nâng cao và tuôn chảy. Và nếu một người xúc động, xúc động của người đó sẽ được tăng thêm.
Cho nên trung tâm hoạt động nhất sẽ bị đập vào và bị kích thích trước hết bởi việc thở sâu và nhanh. Nhưng chẳng mấy chốc nó bắt đầu ảnh hưởng tới các trung tâm khác nữa. Và tương ứng với thay đổi này, biến đổi về nhân cách cũng bắt đầu đồng thời. Bạn sẽ bắt đầu biết rằng bạn đang thay đổi; bạn không là cùng người bạn đã là cho tới bây giờ.
Chúng ta không biết rằng có rất nhiều khả năng bên trong từng người chúng ta. Chúng ta quen thuộc chỉ với trung tâm của mình, cái hoạt động và ngủ và là nơi chúng ta tồn tại. Cho nên khi trung tâm khác mở ra thì dường như là nhân cách cũ của chúng ta mất đi và con người mới đã xuất hiện vào chỗ của nó. Hay dường như là chúng ta bây giờ không là cùng người như chúng ta trước đây. Điều đó tựa thế này: tôi nhận biết chỉ một căn phòng trong ngôi nhà nơi tôi sống, và tôi mang dấu ấn của căn phòng này trong tâm trí tôi. Rồi bỗng nhiên một hôm một cánh cửa mở ra và căn phòng khác xuất hiện trước tôi. Thế rồi toàn thể bản đồ tâm trí tôi về ngôi nhà sẽ trải qua thay đổi. Bây giờ ngôi nhà mà tôi đã nghĩ là của tôi sẽ là ngôi nhà rất khác, và tôi sẽ cần thu xếp lại nó một lần nữa.
Cho nên các trung tâm khác sẽ bị đập vào và được kích hoạt, các chiều hướng mới của cuộc sống của bạn sẽ bắt đầu bộc lộ và tự biểu hiện chúng. Và khi tất cả những trung tâm này sẽ được kích hoạt cùng nhau - tức là khi năng lượng sẽ tuôn chảy đều qua tất cả chúng - lần đầu tiên chúng ta sống một cuộc sống toàn thể; chúng ta sẽ sống một cách toàn bộ.
Thông thường không ai sống một cách toàn thể, toàn bộ cả; tất cả chúng ta đều sống cuộc sống manh mún. Tất cả các trung tâm phía trên của chúng ta vẫn còn không được động tới. Cho nên thở sâu sẽ đập vào và kích hoạt tất cả chúng.
Và câu hỏi "Tôi là ai?" làm cùng điều đó; nhưng nó gõ búa vào các trung tâm này từ hướng khác. Cho nên cố gắng hiểu nó đi, như bây giờ các bạn hiểu chức năng của việc thở sâu và nhanh. Làm sao việc tụng "Tôi là ai?" có tác động lên kundalini?
Các bạn không biết tại sao khi các bạn nhắm mắt và hình dung ra bức tranh đàn bà trần truồng, thì trung tâm dục của các bạn lập tức bị kích động. Các bạn mới chỉ hình dung thôi và vậy mà trung tâm dục của các bạn đã bị khuấy động rồi. Tại sao?
Trong thực tế, mọi trung tâm đều có tưởng tượng riêng của nó, và nếu bạn tưởng tượng điều gì đó gần với nó, thì trung tâm có liên quan này sẽ bị kích động ngay. Cho nên ngay khi các bạn nghĩ và tưởng tượng về dục, trung tâm dục của các bạn bắt đầu làm việc; các bạn bị kích động về dục.
Và các bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng trong vấn đề này người đàn bà thực trần truồng có thể không gây kích động và có hiệu quả như ý nghĩ về cô ấy. Lí do là ở chỗ ý nghĩ về đàn bà trần truồng sẽ đưa bạn vào tưởng tượng của mình mà nó sẽ bắt đầu đập vào trung tâm dục ngay lập tức và mạnh mẽ. Nhưng người đàn bà thực trần truồng không thể đưa bạn vào tưởng tượng được, vì cô ấy ở ngay trước bạn, cô ấy gần gũi thế. Cho nên cô ấy sẽ ảnh hưởng tới bạn chỉ tới mức độ như một vật gần cạnh có thể tác động. Trong khi người đàn bà thực đập vào bạn từ phía trước, thì người đàn bà tưởng tượng sẽ đập vào bạn từ bên trong. Và cú đánh từ phía trước không thể mạnh và sâu như cú đánh từ bên trong. Do đó, có nhiều đàn ông tỏ ra bất lực trước đàn bà thực nhưng rất có khả năng giao hợp trong tưởng tượng; không có chỗ hết cho tiềm năng tưởng tượng của họ. Bởi vì cuộc công kích của tưởng tượng chạm tới trung tâm của bạn từ bên trong, trong khi cuộc công kích từ phía trước của người đàn bà thực không thể chạm được vào bạn từ bên trong; nó chạm trực tiếp vào bạn từ bên ngoài. Và bởi vì đàn ông sống trong tâm trí của mình, cho nên người đó có thể làm việc trên những trung tâm này hiệu quả hơn qua tâm trí.
Cho nên khi bạn hỏi, "Tôi là ai?" thì bạn đang nêu ra việc hỏi, bạn đang đưa ra câu hỏi về mặt tâm trí. Câu hỏi này sẽ chạm vào trung tâm nào? Nó nhất định chạm vào trung tâm nào đó. Khi bạn hỏi câu hỏi này, khi bạn truy vấn mình là ai, khi bạn tràn đầy với khao khát này để biết, khi mọi thớ thịt của bạn hỏi, "Tôi là ai?" bạn đang đi vào bên trong; và chắc chắn trung tâm nào đó bên trong bạn sẽ bị đập vào và được nó kích hoạt.
Nhưng bởi vì "Tôi là ai?" là câu hỏi các bạn chưa bao giờ hỏi cả, nên nó sẽ không đánh vào bất kì trung tâm nào bạn đã biết và đang kích hoạt. Đây là câu hỏi các bạn chưa bao giờ tự hỏi bản thân mình, đây là việc truy vấn các bạn chưa bao giờ tiến hành. Các bạn chưa bao giờ được rót đầy với khao khát để biết mình là ai. Các bạn vẫn thường hỏi, "Anh ấy là ai? Cô ấy là ai?" và những câu hỏi như thế này; nhưng các bạn chưa bao giờ hỏi "Tôi là ai?" "Tôi là ai?" đã là một câu hỏi chưa được hỏi lâu thế. Và do đó nó sẽ đánh vào một trung tâm hoàn toàn chưa được biết tới mà bạn chưa hề chạm tới. Và trung tâm chưa biết đó, mà câu hỏi này "Tôi là ai?" định đập vào, là rất cơ bản - bởi vì bản thân câu hỏi này là rất cơ bản.
"Tôi là ai?" là câu hỏi rất nền tảng và là câu hỏi rất mang tính tồn tại. "Tôi là ai?" là câu hỏi bao gồm tính toàn bộ của sự tồn tại của chúng ta trong tất cả mọi chiều sâu và chiều cao của nó. Câu hỏi này sẽ đem tôi tới nơi đã ở trước khi tôi được sinh ra, đằng sau mọi kiếp sống quá khứ của tôi. Câu hỏi này có thể đem tôi tới nơi tôi đã ở lúc bắt đầu sơ khai. Tính sâu sắc của câu hỏi này là vô hạn. Và chính cuộc hành trình của nó cũng sâu sắc như vậy. Do đó, câu hỏi này sẽ lập tức đánh vào trung tâm cơ sở, trung tâm sâu nhất - kundalini.
Thở sâu đánh vào trung tâm này về mặt thể chất, còn câu hỏi "Tôi là ai?" làm cùng công việc đó về mặt tinh thần, về mặt tâm lí. Câu hỏi này gõ búa vào kundalini bằng năm lượng tinh thần còn thở sâu gõ búa vào nó bằng năng lượng thân thể. Và nếu cả hai chiếc búa đều gõ đủ mạnh... Thông thường chỉ có hai cách để gõ búa vào trung tâm này - một cách qua việc thở và cách kia qua việc hỏi "Tôi là ai?" Cũng có những cách khác nữa, nhưng chúng có chút ít phức tạp.
Người khác cũng có thể có ích trong vấn đề này. Nếu bạn làm nó trong sự hiện diện của tôi thì hiệu quả sẽ nhanh hơn và lớn hơn, bởi vì thế thì sẽ có việc gõ búa từ hướng thứ ba mà bạn chẳng có ý tưởng gì cả. Đó là hướng tinh tú với việc gõ búa còn tinh tế hơn việc gõ về tinh thần và thể chất. Khi các bạn thở mãnh liệt, nó gõ búa vào trung tâm này theo mặt thể chất. Khi các bạn hỏi "Tôi là ai?" nó làm cùng việc đó về mặt tinh thần. Và khi các bạn làm nó trong sự hiện diện của người khác mà qua người đó thể tinh tú của bạn bị gõ búa vào, cuộc hành trình thứ ba bắt đầu. Cho nên nếu năm mươi người thiền ở đây cùng nhau, nó sẽ mãnh liệt hơn nhiều nếu chỉ một người thiền. Bởi vì khao khát của năm mươi người tổ hợp với những rung động của việc thở mãnh liệt của họ, bầu không khí tinh tú sẽ tràn ngập căn phòng này, và một loại sóng ánh sáng điện mới sẽ bắt đầu luân chuyển khắp xung quanh, điều sẽ đập vào bạn từ hướng khác.
Nhưng thông thường các bạn chỉ có hai cách trực tiếp - một là thể chất và cách kia là tinh thần. Cho nên "Tôi là ai?" sẽ đập mạnh hơn; nó sẽ đập mạnh hơn thở sâu. Nhưng chúng ta bắt đầu với việc thở, bởi vì đó là từ thân thể và dễ dàng thực hiện. Việc hỏi "Tôi là ai?" có chút ít khó khăn hơn, vì nó là từ tâm trí. Chúng ta bắt đầu với thân thể và khi thân thể bắt đầu rung động đầy đủ, nó chuẩn bị cho tâm trí để hỏi câu hỏi "Tôi là ai?" Tình huống đúng cần có cho việc hỏi này. Sẽ chẳng có gì tốt nếu hỏi mà không có chuẩn bị trước, "Tôi là ai?" vào bất kì lúc nào và mọi lúc.
Trong thực tế, mọi câu hỏi đều cần một tình huống đúng để nó có thể được hỏi. Chẳng hạn, khi thân thể bạn bắt đầu rung và lắc, một câu hỏi tự động nảy sinh và bạn tự hỏi mình, "Tất cả điều này là gì vậy? Làm sao tôi đang làm thế này?" Và thế rồi bạn biết rằng bạn đang không làm gì cả, bạn không giơ chân mình lên mà cũng không quay đầu và nhảy múa; ấy vậy mà điệu vũ vẫn đang xảy ra. Và nếu tất cả điều này xảy ra mà không có nỗ lực của bạn, thì sự đồng nhất của bạn với thân thể bắt đầu chùng ra. Thế thì một câu hỏi mới nảy sinh trước bạn, bạn muốn biết mình là ai. Câu hỏi mới này là ở chỗ nếu thân thể không phải là việc làm của bạn, thế thì ai khác làm nó, và bạn là ai. Bây giờ sự phân li, một lỗ hổng được tạo ra giữa bạn và thân thể bạn.
Đây là tình huống đúng, khi mà qua lỗ hổng này câu hỏi "Tôi là ai?" có thể chìm vào sâu trong bạn. Nó chính xác là cơ hội này khi việc hỏi câu hỏi này trở thành cần thiết. Thực sự mọi câu hỏi đều có thời điểm đúng, mùa vụ đúng riêng của nó. Và điều rất quan trọng là tìm ra đúng mùa vụ cho câu hỏi này "Tôi là ai?" Đấy không phải là câu hỏi để được hỏi theo cách ứng khẩu; nó không thể được hỏi vào bất kì thời điểm nào mà không có sự chuẩn bị. Nếu, khi ngồi ở đây, các bạn hỏi một cách tình cờ "Tôi là ai?" nó sẽ mất tăm mất tích trong không trung; nó sẽ không đạt tới đâu cả. Một lỗ hổng, một lối mở trong bạn là cần thiết để từ đó câu hỏi này có thể thấm sâu vào bạn. Lối mở là điều phải có.
Với việc gõ búa liên tục vào hai điều này - thở sâu và "Tôi là ai?" - kundalini sẽ thức dậy. Và với việc thức dậy của nó, những kinh nghiệm phi thường sẽ bắt đầu xảy ra; bởi vì tất cả mọi kinh nghiệm của tất cả các kiếp sống quá khứ của bạn đều được liên kết với kundalini - theo cách chúng được lắng đọng ở đó. Các kinh nghiệm của bạn về vô hạn kiếp sống, kể cả các kiếp sống là cây, là cá, là chim, những kinh nghiệm mà bạn đã trải qua trong toàn thể quá trình tiến hoá của bạn đều nằm trải trên con đường hành trình của bạn. Và quyền năng rắn này được biết như là kundalini đã hấp thu tất cả chúng. Do đó nhiều loại điều có thể xảy ra và bạn có thể đồng nhất bản thân mình với những kinh nghiệm này. Bất kì loại sự việc nào, những sự việc không thể nghĩ nổi, cũng đều có thể xảy ra. Bạn không có ý tưởng nào về nhiều kinh nghiệm tinh tế được liên kết với kundalini.
Chẳng hạn, có một cây đang đứng trong vườn, và một cơn gió mạnh và mưa to vừa mới quét qua khu vườn. Cách thức mà cây này đã kinh nghiệm và biết về gió và mưa là đặc biệt của riêng nó; chúng ta không biết mà bất kì ai khác cũng chẳng biết điều đó. Cách thức cây này đã biết về cơn mưa đó, chúng ta không bao giờ có thể biết được nó. Làm sao chúng ta có thể biết được nó? Điều đó là không thể được. Cho dù chúng ta có đứng gần cây đó, chúng ta vẫn không thể kinh nghiệm được điều đó theo cách cây này kinh nghiệm điều đó. Chúng ta có thể biết điều đó duy nhất theo cách chúng ta có khả năng biết điều đó.
Nhưng ở một giai đoạn nào đó trong quá trình cuộc hành trình cuộc đời của chúng ta, bạn phải đã từng là cây nữa. Bây giờ nếu kundalini, khi bạn đang thở và hỏi "Tôi là ai?" mà đạt tới chỗ kinh nghiệm của bạn như cây đã được lắng đọng lại, bạn bỗng nhiên đi tới biết điều đích xác như cây này đã biết khi trời mưa. Bạn sẽ thực sự biết rằng trời mưa. Và thế thì bạn sẽ hoảng sợ, rất kinh hoàng, và bạn sẽ tự hỏi tất cả điều này là gì. Và chỉ thế thì bạn mới hiểu tại sao đôi khi bạn cảm thấy thích đại dương và đôi khi bạn thích gió, và bạn sẽ trải qua cùng những kinh nghiệm này như đại dương và gió đã trải qua. Và kết quả của điều đó là khả năng thẩm mĩ của bạn và nhiều khả năng khác, mà bạn chẳng có ý tưởng gì về chúng là bất kì cái gì, sẽ bắt đầu tự chúng hiển lộ ra.
Có một bức tranh của Van Gogh trong đó cây, một cây cao lắm, vươn thẳng lên trời. Cây này mọc cao tới mức nó đã bỏ xa các ngôi sao, kể cả mặt trời và mặt trăng, bỏ xa đằng sau nó, thấp hơn nó nhiều. Các vì sao, mặt trời và mặt trăng, tất cả chúng đều có vẻ như những vật tí hon mờ nhạt dưới gốc cây này, ở gần trái đất, trong khi cây đơn độc này vươn cao hơn và cao hơn vào vô hạn. Ai đó nói với Van Gogh, "Ông điên mà đi vẽ cây như thế. Cây có bao giờ mọc được cao đến mức mà sao nằm ở dưới nó không?" Van Gogh nói, "Có lẽ ông chưa bao giờ biết cây; ông chưa bao giờ thấy bên trong của cây. Nhưng tôi biết cây này từ bên trong nó; tôi biết nó theo chiều sâu. Nó là nhỏ bé vụn vặt nếu nó không thể vượt ra ngoài mặt trăng và mặt trời và các vì sao trên trời, nhưng tất cả đều là một, chắc chắn mọi cây dài đều làm như vậy. Chẳng liên quan gì việc cây không thể vượt qua được chúng; tất cả đều như nhau điều đó là khát khao của nó, thèm muốn cái mênh mông. Điều đó đúng, tôi thậm chí không thể nghĩ được về nó. Chính giới hạn của nó là cây không thể mọc cao đến đó, nhưng tôi biết cách thức tâm linh của nó, bản thể của nó bao giờ cũng tung cánh lên ngày một cao hơn và đạt tới những miền trời cao nhất."
Van Gogh thường nói, "Cây là khao khát của đất để đạt tới trời. Cây là ham muốn thực sự của đất; qua nó đất đang trải rộng bàn tay của nó để chạm vào trời."
Qua kundalini chúng ta sẽ biết mưa theo cách cây biết nó, ngay cả chúng ta sẽ biết nó một cách rõ ràng như cây biết. Nhưng tất nhiên, chúng ta đã từng là cây và nhiều điều khác nữa. Và vì vậy bất kì cái gì cũng có thể xảy ra trong thiền. Ngoài điều này, chúng ta sẽ bắt đầu có những thoáng nhìn về tiềm năng tương lai của mình. Chúng ta sẽ không chỉ biết rằng chúng ta đã từng hiện hữu trong quá khứ, chúng ta cũng sẽ đi tới biết rằng điều chúng ta có thể là trong tương lai.
Và sau khi chúng ta đã đi vào con đường của kundalini, sau khi chúng ta đã tham gia vào cuộc hành hương của nó, thì lịch sử của chúng ta như lịch sử của một cá nhân đi tới chỗ chấm dứt, và lịch sử của tâm thức, tâm thức toàn thể bắt đầu. Aurobindo hay nói dưới dạng này, và điều đó là khó, việc này không thể rất rõ ràng. Thế thì đấy không phải là lịch sử của một cá nhân, đấy là lịch sử của bản thân tâm thức. Thế thì bạn không một mình, bạn được gắn với tất cả cái vô hạn đã xảy ra trong quá khứ và cũng với tất cả cái vô hạn sẽ xảy ra trong tương lai. Thế thì toàn thể cái vô hạn sẽ ở trong bạn. Nó giống như hạt mầm nguyên thuỷ đã tự hiển lộ bản thân mình, cái liên tục không dùng thể hiện bản thân nó, và dường như không có kết thúc cho nó. Và khi bạn sẽ thấy cái vô giới hạn của mình mở rộng, mở rộng không có bắt đầu và không có kết thúc, mở rộng với cái vô hạn đằng sau nó và cái vô hạn đằng trước nó, thế thì trạng thái của bạn sẽ khác hẳn, thế thì mọi thứ về bạn sẽ trải qua thay đổi bể dâu.
Và toàn thể mọi điều đã trải qua đều nằm ẩn trong kundalini.
Thế thì nhiều màu sắc mới sẽ xuất hiện trước bạn mà bạn chưa bao giờ thấy trước đây. Trong thực tế, các bạn sẽ thấy không có nhiều màu sắc mấy ở bên ngoài như có ở bên trong bạn, khi bạn đi tới kinh nghiệm này. Bởi vì trong quá trình của cuộc hành trình vô hạn của cuộc sống các bạn đã biết những màu sắc này từ mọi thời gian và theo những cách thức hoàn toàn khác. Chiếc diều lang thang trên trời thấy màu sắc theo một cách, và chúng ta ở đây trên mặt đất thấy cùng màu đó theo cách hoàn toàn khác. Nếu các bạn đi vào lùm cây các bạn sẽ thấy chỉ một màu, màu lục. Nhưng nếu một hoạ sĩ đi vào cùng lùm cây đó, ông ấy sẽ thấy cả nghìn lẻ một màu. Màu lục không chỉ là một màu; có cả nghìn sắc thái cho nó. Và thậm chí không có hai sắc thái nào là như nhau; mỗi sắc thái đều duy nhất; nó có tính cá nhân riêng của mình. Với chúng ta màu lục đơn giản là màu lục; tại đó vấn đề chấm dứt. Chúng ta có khái niệm rộng và thô và tổng quát hoá về màu lục; chẳng có gì nhiều hơn cho nó. Nhưng thực tại của nó hoàn toàn khác với điều chúng ta biết. Màu lục không phải là một màu; thực tế nó là cả nghìn màu. Và mọi màu đều có cả nghìn màu bên trong nó. Cho nên khi bạn đi vào bên trong bản thân mình, bạn sẽ trải qua hàng nghìn kinh nghiệm rất đẹp, tinh tế và hiếm hoi.
Trong vấn đề cảm nhận giác quan, con người là sinh linh yếu đuối và nghèo nàn; con vật và chim chóc còn cao cấp hơn con người nhiều. Giác quan của con vật và chim chóc rất mạnh; nhạy cảm của chúng đơn giản là sâu sắc - cả về chiều cao và chiều sâu. Điều chúng thiếu là ở chỗ chúng không thể biết một cách có ý thức và nghĩ về điều đó. Nhưng nhạy cảm của chúng, tỉnh táo của chúng, kinh nghiệm của chúng dù sao cũng rất sâu sắc và sâu lắng.
Có loài chim, loài chim rất thông thường ở Nhật Bản. Chim này rời làng chỗ nó ở hai mươi tư giờ trước khi động đất làm rung chuyển làng này. Khi chim đó không còn được thấy ở đâu nữa trong làng, cư dân của làng lập tức biết rằng động đất nhất định xuất hiện trong vòng hai mươi tư giờ. Ngay cả với các thiết bị khoa học hiện đại mà chúng ta có, chúng ta cũng không thể dự đoán được trận động đất sắp xảy đến trước hơn sáu giờ, và thậm chí có thế thì cũng không tin cậy được như vậy. Nhưng dự đoán do loài chim này thực hiện đúng một trăm phần trăm; nhạy cảm của chúng cao và sắc bén và không thể sai được đến thế. Và những con chim này là bình thường và có nhiều đến mức khi chúng biến mất, cả làng đều biết rằng động đất đang sắp xảy ra rồi. Điều đó nghĩa là ngay cả những rung động cực kì tinh tế của trận động đất sắp xảy ra cũng được loài chim này cảm nhận, và chúng rời bỏ làng đó.
Nếu bao giờ trong quá khứ lâu dài của mình bạn đã từng là loài chim này, bạn sẽ cảm thấy những rung động như vậy trong quá trình thực hành kundalini của mình, điều bạn chưa bao giờ cảm thấy. Nhưng trong thực tế bạn đã kinh nghiệm chúng trước rồi, nhưng bạn không nhớ chúng. Chẳng cái gì xảy ra trong quá trình thức dậy của kundalini mà đã không từng xảy ra trước đây trong các kiếp sống quá khứ của bạn. Cho nên bạn sẽ thấy những màu mà bạn chưa bao giờ thấy. Bạn sẽ nghe thấy âm thanh bạn chưa bao giờ nghe thấy. Kabir gọi nó là naad, hay âm thanh tinh tế.
Kabir nói, "Nhảy múa đi, sư, nước cam lồ đang mưa xuống." Và sư này hỏi, "Trời mưa ở đâu?" Bây giờ cơn mưa nước cam lồ này của Kabir không xảy ra ở bên ngoài; nó là kinh nghiệm bên trong. Kabir cũng nói, "Nghe đây, sư, âm thanh naad của chiếc trống lớn." Và sư này muốn biết nó là gì. Họ không nghe thấy bất kì âm thanh nào, mặc dầu những lời kêu gọi lặp lại của Kabir với họ để nghe nó. Các bạn nữa, cũng có thể nghe thấy những âm thanh đó mà Kabir đã nghe thấy. Các bạn cũng có thể kinh nghiệm những trạng thái khẩu vị mà bạn chưa bao giờ kinh nghiệm trước đây.
Cho nên một thế giới bao la các cảm giác và kinh nghiệm tinh tế được móc nối với kundalini. Tất cả các cảm giác và kinh nghiệm của nó sẽ trở nên sống động và thức dậy và đương đầu với bạn từ mọi hướng. Đó là lí do tại sao, trong tình huống như vậy, người ta thường trông như người điên. Bởi vì khi chúng ta ngồi yên tĩnh, người đó bỗng nhiên bộc phát cười to vì người đó đi tới thấy cái gì đó mà chúng ta không thấy. Và người đó có thể bỗng nhiên bắt đầu la hét vào lúc chúng ta tất cả đều cười, bởi vì điều gì đó có thể đã xảy ra cho người đó mà không xảy ra cho chúng ta.
Cho nên thông thường chỉ có hai cách gõ búa lên kundalini. Và cách thứ ba là cách phi thường - cách của shaktipat, hay việc truyền năng lượng. Đây là cách tinh tú, và nó cần một trung gian, một phương tiện. Bạn có thể đạt tới sự mãnh liệt trong thiền chỉ nếu người khác giúp bạn. Người khác không phải làm gì cả; chỉ sự hiện diện của người đó là đủ. Người đó trở thành phương tiện, tác nhân xúc tác.
Năng lượng vô hạn thấm đẫm khắp thế giới. Vấn đề chỉ là rút nó ra. Bây giờ chúng ta gắn một cọc sắt vào nóc nhà để cho khi sét đánh vào nhà thì nó truyền qua cọc này và chìm vào lòng đất, và ngôi nhà vẫn không bị tổn hại gì. Sét có thể đánh vào nhà ngay cả khi thiếu cọc sắt, nhưng thế thì nó sẽ phá huỷ cả ngôi nhà. Nhưng cọc sắt là khám phá mới đây, còn sét đã có đó từ thời thượng cổ. Việc truyền dẫn sét đã có đó từ lâu rồi, nhưng chúng ta gần đây mới nghĩ tới cái cọc này.
Con người được bao quanh mọi phía bởi năng lượng vô hạn, điều có thể được dùng cho sự phát triển tâm linh của người đó. Năng lượng vô hạn có đó và tất cả nó có thể được dùng cho việc nâng cao tâm linh của con người. Tuy nhiên để làm điều này, một trung gian, một phương tiện là cần phải có. Bạn có thể là trung gian riêng của mình, nhưng ban đầu điều đó có thể nguy hiểm. Shaktipat, bụi phóng xạ của năng lượng, có thể mạnh tới mức bạn có thể không chịu đựng được nó. Có khả năng là những giác quan tinh tế nào đó của thân thể bạn bị tắc lại hay chúng bị phá hỏng. Mọi năng lượng đều có chừng mực, có điện thế phải ở vào đúng tỉ lệ với khả năng của bạn để chịu đựng được nó. Việc thông qua người khác làm trung gian có tác dụng như một công cụ điều chỉnh năng lượng trong mối quan hệ của nó với khả năng chịu đựng của bạn.
Để hành động như một phương tiện cho shaktipat điều bản chất là năng lượng thiêng liêng đã giáng lên người khác. Chỉ thế thì người đó mới có thể trù tính và đảm đương được shaktipat theo khả năng của bạn. Và người đó không cần phải làm gì cả đối với vấn đề này; đơn thuần sự hiện diện của người đó làm mọi điều cần thiết. Sự hiện diện là tất cả những gì cần thiết. Sự hiện diện của người đó hành động như tác nhân xúc tác; bản thân người trung gian không làm gì cả. Cho nên nếu ai đó công bố rằng mình có thể làm điều gì đó, người đó hoàn toàn sai. Không ai có thể làm được shaktipat, nhưng sự hiện diện của ai đó có thể làm xúc tác cho điều đó, làm cho nó xảy ra.
Bây giờ tôi nghĩ rằng khi người tìm kiếm đạt tới chiều sâu nào đó trong thiền, shaktipat sẽ bắt đầu xảy ra ở đây với toàn lực. Không có khó khăn gì về điều đó cả; không khó chút nào. Không ai cần phải làm gì cả; điều đó sẽ xảy ra theo cách riêng của nó. Bạn bỗng nhiên sẽ thấy rằng một loại năng lượng hoàn toàn khác đã đi vào bạn từ bên ngoài; nó không tới từ bên trong bạn. Bất kì khi nào bạn kinh nghiệm việc dâng lên của kundalini, thì dường như nó dâng lên từ bên trong bạn; còn bất kì khi nào bạn kinh nghiệm shaktipat, thì nó sẽ dường như tới từ bên ngoài, từ bên trên. Nó sẽ là như vậy. Nó sẽ được cảm thấy rõ ràng như người ta cảm thấy nước rơi xuống mình từ trên cao và nước dâng lên với người đó từ bên dưới.
Kinh nghiệm về kundalini cũng tựa như việc chìm ngập, dường như bạn đang đứng trong lòng sông và mức nước dâng lên từ bên dưới và bạn đang bị chìm ngập trong nó. Kinh nghiệm về kundalini bao giờ cũng giống thế này - bao giờ cũng giống thế này - kinh nghiệm về việc bị chìm ngập trong dòng sông. Bạn sẽ cảm thấy rằng cái gì đó từ chiều sâu nào đó đang dâng lên và bạn đang bị nhận chìm vào trong nó, chìm ngập vào trong nó. Nhưng kinh nghiệm về shaktipat hoàn toàn khác; nó giống như mưa rơi từ trên trời, rơi từ trên xuống. Đó là điều Kabir nói tới khi ông ấy nói, ''Hỡi các sư, nước cam lồ đang mưa xuống,'' và các sư của ông ấy hỏi chỗ nào. Nó rơi từ bên trên và làm bạn ướt sũng.
Bây giờ nếu cả hai quá trình này xảy ra cùng nhau, nó sẽ tăng cường ngay tiến bộ của bạn. Thế rồi, đồng thời mưa sẽ rơi từ bên trên và nước sông dâng lên từ bên dưới. Thế thì các biến cố mưa rơi và dòng sông đang làm lụt xảy ra đồng thời, và bạn bị nhấn chìm, bạn bị phá huỷ từ cả hai đầu. Cả hai quá trình này có thể xảy ra cùng nhau; không có khó khăn nào hàm chứa trong đó.

Người hỏi: tác dụng của shaktipat chóng hết hay nó kéo dài? Và một biến cố shaktipat có đủ để đưa chúng ta tới đích của cuộc hành trình hay người ta còn cần nhiều hơn thế?

Sự kiện là ở chỗ hiệu quả kéo dài bắt nguồn từ kundalini của riêng bạn; shaktipat chỉ là sự trợ giúp. Shaktipat không bao giờ có thể tạo nên được cơ sở của bạn; nó không bao giờ trở thành cấu trúc cơ bản của bạn được. Điều xảy ra bên trong bạn còn quan trọng hơn; nó là cơ bản, là nền tảng. Đó mới là của cải thực của bạn. Một mình điều đó mới là của cải cơ bản của bạn. Shaktipat sẽ không thêm của cải cho bạn, nhưng chắc chắn nó sẽ làm tăng khả năng phát triển. Khác biệt này nên được hiểu đúng. Với shaktipat của cải của bạn sẽ không tăng lên nhiều lần, nhưng cái được gọi là tỉ lệ tăng trưởng, tỉ lệ mở rộng của nó chắc chắn sẽ được tăng lên cùng shaktipat.
Cho nên shaktipat không phải là của cải riêng của bạn. Nó giống như thế này: bạn chạy và tôi đuổi theo bạn với khẩu súng trong tay. Bây giờ khẩu súng của tôi không định làm tăng thêm sức chạy của bạn, nhưng chắc chắn nó sẽ làm cho bạn chạy nhanh hơn. Chính bạn mới là người chạy trong mọi biến cố; chính năng lượng của bạn mới dồn vào việc chạy. Nhưng bởi vì khẩu súng này bạn sẽ đưa vào dùng ngay cả đến năng lượng vẫn nằm đó chưa được dùng trong bạn. Khẩu súng không cung cấp cho bạn thêm năng lượng nào; nó cũng không làm mất cho dù một giọt năng lượng riêng của bạn trong trò chơi này. Nếu bạn xem xét khẩu súng về sau, bạn sẽ thấy nó vẫn hệt như trước đây; nó không mất gì cả. Nhưng tác động của khẩu súng sẽ làm cho bạn chạy nhanh hơn, mãnh liệt hơn và tốc độ chạy cao hơn. Nơi bạn đã đi dạo giải trí trước đây, bây giờ bạn chạy và chạy và chạy nhanh.
Cho nên shaktipat không thêm của cải năng lượng của bạn, nhưng chắc chắn nó làm tăng khả năng trưởng thành và mở rộng.
Shaktipat có tác động tựa như tia chớp. Tia chớp không chiếu sáng con đường của bạn, nó không phục vụ bạn như cây đèn trong tay bạn; nó chỉ cho bạn một chớp lóe, một thoáng nhìn về con đường phía trước và những thứ bao quanh nó. Nhưng thoáng nhìn này rất quí giá; bây giờ chân bạn vững chãi, bây giờ ý chí bạn mạnh mẽ, bây giờ quyết tâm của bạn để đạt tới định mệnh của mình được tôi cứng. Bạn đã thấy con đường và bạn biết nó có đó và bạn biết rằng bạn không vẩn vơ vô mục đích. Một tia chớp lóe và bạn có được một thoáng nhìn về con đường bạn phải đi qua, và về ngôi đền là định mệnh của cuộc hành trình của bạn. Và ngay khi ánh sáng mất đi và bạn bị nhận chìm vào trong bóng tối đen ngòm; nhưng bây giờ bạn là con người khác, mặc dầu bạn đang đứng ở cùng chỗ bạn đã ở trước khi tia chớp xảy ra. Bây giờ bạn tự tin, và bạn biết bạn định tiến lên trước. Bây giờ bạn biết con đường có đó và ngôi đền, mặc dầu vô hình, đã trong tầm tay. Bây giờ bạn cảm thấy được đảm bảo. Bây giờ bạn tin tưởng và tin cậy, điều củng cố cho ý chí và quyết tâm của bạn.
Cho nên hiệu quả của shaktipat là gián tiếp, và do đó bạn cần nó nhiều lần. Một lần là không đủ; tia chớp thứ hai sẽ làm lợi cho bạn nhiều hơn, và tia chớp thứ ba còn nhiều hơn nữa. Điều bạn có thể đã bỏ lỡ lần thứ nhất sẽ được thấy ở tia chớp thứ hai và thứ ba. Ít nhất chúng sẽ làm mạnh thêm cho tin tưởng của bạn; chúng sẽ làm tăng cường ý chí của bạn.
Cho nên bạn không thể đạt tới được mục đích tối thượng của mình qua shaktipat; chính bạn là người phải bước đi trên con đường của mình tới định mệnh.
Thậm chí bạn có thể đạt tới mà không cần shaktipat, nhưng thế thì sẽ mất nhiều thời gian hơn; bạn sẽ đạt tới về sau. Vì thiếu tia chớp của shaktipat bạn sẽ kém tự tin hơn và bạn sẽ cần nhiều dũng cảm và sức mạnh hơn. Hoài nghi và sợ hãi thỉnh thoảng sẽ túm lấy bạn; bạn sẽ không chắc chắn về con đường của mình và định mệnh của nó. Tất cả mọi điều này sẽ xảy ra; dù sao thì bạn cũng sẽ đạt tới mục đích của mình.
Nhưng shaktipat quả thực là sự giúp đỡ. Tôi muốn rằng, nếu các bạn làm tiến bộ nào đó, thì shaktipat xảy ra cho một nhóm đông người, thay vì cho một hay hai cá nhân vào mỗi lúc. Sao giới hạn điều đó vào một hay hai cá nhân? Nó có thể xảy ra một cách tập thể cho mười nghìn người đứng cùng nhau; không có khó khăn gì trong vấn đề này. Bởi vì thời gian tốn như nhau dù điều đó được thực hiện cho một người hay mười nghìn người. Điều đó không tạo ra khác biệt về bất kì cái gì.

Người hỏi: trong trường hợp việc tiếp xúc với người trung gian không được duy trì, liệu tác động của shaktipat có bị hao mòn đi không?


Tác động này nhất định là suy giảm đi chứ. Trong thực tế, mọi tác động đều mòn mỏi đi dần dần. Bản thân tác động có nghĩa là nó đã bị một tác nhân bên ngoài gây ra, và do vậy nó sẽ giảm dần đi. Nhưng năng lượng phát sinh từ bên trong bạn thì ở lại, bởi vì nó là của riêng bạn. Năng lượng tới từ bên ngoài nhất định giảm thiểu đi và biến mất. Nhưng điều tới từ bên trong bạn không giảm thiểu đi; nó sẽ còn lại. Cũng năng lượng đó ở lại sẽ dâng lên dưới tác động của shaktipat. Vốn cơ bản của bạn không hao mòn đi, nhưng hiệu quả của nó thì có.

Người hỏi: Sẽ không có nguy hiểm rằng vốn năng lượng cơ bản của chúng ta sẽ hao mòn đi cho dù chúng ta vẫn chơi với bạn xấu? Vậy chúng ta sẽ không bị sa ngã từ chỗ cao của mình chứ?

Không có cách nào để sa ngã hay đi xuống. Điều này thực sự cần được hiểu rõ ràng. Rất thú vị mà biết rằng không có cách nào để đi xuống hay lùi lại. Bạn có thể được giúp đỡ để đi lên cao hơn từ chỗ bạn đã đạt tới, cho dù việc đi lên của bạn từ đó có thể vẫn bị cản trở; nhưng không có cách nào để kéo bạn xuống từ chỗ đó. Có lí do cho điều đó. Trong quá trình đi lên của bạn, việc dâng lên của bạn, bạn đã thay đổi, và bạn đã trưởng thành, và ngay cả một li của trưởng thành người đó cũng không thể xoá bỏ hay đảo ngược lại được. Rút lui hay thoái ngược là điều không thể được trong cuộc sống.
Điều đó giống thế này: Chúng ta có thể giúp cho đứa trẻ được lên lớp từ lớp một lên lớp hai; thầy kèm có thể tham gia vào việc giúp cho nó trong vấn đề này. Nhưng bạn không thể tìm được thầy kèm nào có thể làm cho đứa trẻ quên đi điều nó đã học ở lớp một. Tuy nhiên có khả năng là sau khi lên lớp hai thì nó rơi vào một nhóm các bạn ngu và trong biến cố đó nó bị cản trở cứ ở lại lớp mãi. Nhưng không bao giờ có khả năng là bạn ngu sẽ làm cho nó phải trở lại lớp một. Điều đó không phải là như vậy sao? Cũng có khả năng là nó bị giữ lại ở lớp hai suốt cả đời, có khả năng là nó không bao giờ được phép lên lớp ba, nhưng không thể có khả năng đưa nó xuống lớp một. Nó sẽ bị mắc kẹt; có thế thôi.
Trong cuộc sống tâm linh không có quay lại; đấy bao giờ cũng là vấn đề tiến lên hay mắc kẹt. Và việc mắc kẹt này là điều bạn gọi là sa ngã hay thoái lui. Nhưng thoái lui thực sự không xảy ra; điều tồi nhất xảy ra trong tâm linh là trì trệ.

Người hỏi: có khác biệt gì giữa shaktipat và ân huệ không?

Khác biệt là lớn lao, thực sự lớn. Trong thực tế, có khác biệt lớn lao giữa shaktipat và ân huệ.
Shaktipat là một loại kĩ thuật có thể được lập kế hoạch và quản lí. Shaktipat phải được lập kế hoạch và thao tác. Nó không thể được mang tới vào bất kì lúc nào và ở bất kì đâu. Các bạn có hiểu điều tôi ngụ ý không? Để shaktipat xảy ra, rất cần là người tìm kiếm phải ở vào trạng thái đúng để cảm nhận nó và cần người trung gian cũng phải là người trung gian đúng. Và khi cả hai điều kiện này được đáp ứng và chúng đồng bộ, thì shaktipat xảy ra. Đây là vấn đề kĩ thuật.
Ân huệ tới không có mời chào, nó tới từ bóng tối. Bạn không thể mời nó được, bạn không thể có nó theo mệnh lệnh được. Nó không thể được lập kế hoạch, mà cũng không thể bị thao túng và quản lí. Nó là biến cố xảy ra rất thỉnh thoảng, và xảy ra theo cách riêng của nó.
Khác biệt giữa shaktipat và ân huệ là kiểu như khác biệt giữa điện trong nhà bạn và chớp trên bầu trời. Bạn nhấn nút ở đây và ở kia sáng lên ngay lập tức; nhưng chớp của trời hoàn toàn khác. Chớp xảy ra theo cách riêng của nó, bạn không thể có nó theo mệnh lệnh được, mặc dầu về cơ bản đó là cùng một năng lượng vận hành trong cả điện và chớp. Trong khi điện nhà bạn được điều khiển về mặt công nghệ - nó được kiểm soát bằng công cụ và kĩ thuật - chúng ta không điều khiển được chớp. Ân huệ giống như chớp của trời. Nó xảy ra vào khoảnh khắc bất ngờ và hiếm hoi. Và nếu người tìm kiếm ở đúng trạng thái cảm nhận vào khoảnh khắc đó, thì ân huệ có thể xảy ra cho người đó. Và thế thì chắc chắn nó không phải là shaktipat. Mặc dầu về cơ bản nó là cùng một năng lượng như shaktipat, vậy mà nó vẫn là ân huệ - rất khác với shaktipat.
Có khác biệt nữa - rằng không cần người trung gian để nhận ân huệ; ân huệ sẽ giáng xuống bạn theo cách trực tiếp. Nó không cần người trung gian để đạt tới bạn; nó sẽ tới thẳng bạn. Và ân huệ bao giờ cũng là việc xảy ra bất thần. Và nó là hiếm hoi, nó không xảy ra thường xuyên. Và nó không thể được lập kế hoạch và thao tác như shaktipat. Tôi có thể nói rằng nếu các bạn tới ngày hôm sau vào thời điểm cố định sau khi làm việc chuẩn bị nào đó, thì shaktipat sẽ xảy ra. Nhưng tất cả những điều này là không liên quan trong trường hợp của ân huệ. Nó có thể xảy ra, nó có thể không xảy ra. Nó không ở trong tay chúng ta; nó không thể bị điều khiển, bị thao tác.
Ngoài khác biệt này, ân huệ là một với shaktipat.

Người hỏi: làm sao shaktipat có thể được lập kế hoạch nếu nó xảy ra chỉ trong trạng thái vô ngã?


Việc lập kế hoạch có thể được thực hiện trong trạng thái vô ngã; bản ngã chẳng liên quan gì tới việc lập kế hoạch cả. Việc lập kế hoạch vô ngã là tuyệt đối có thể được. Bản ngã là điều khác; nó là điều hoàn toàn khác. Chẳng hạn, chúng ta lập kế hoạch rằng với sự chuẩn bị nào đó chúng ta sẽ ngồi chờ shaktipat ngày mai vào lúc năm giờ sáng. Trong việc lập kế hoạch này người tìm kiếm không bị yêu cầu phải vô ngã, nhưng người trung gian thì phải vô ngã.
Vô ngã không phải là trạng thái nhất thời mà bây giờ bạn vô ngã và bây giờ bạn không vô ngã. Nếu bạn vô ngã, bạn hiện hữu; nếu bạn không vô ngã, bạn không hiện hữu. Nếu tôi vô ngã, tôi hiện hữu; nếu tôi không vô ngã, tôi không hiện hữu. Không phải là mai vào lúc năm giờ tôi sẽ trong trạng thái vô ngã. Điều đó là kì cục.
Làm sao nó có thể thế được? Không có cách nào để như vậy được. Nếu tôi vô ngã ngay bây giờ, chỉ thế thì tôi mới vô ngã ngày mai vào lúc năm giờ. Và tôi sẽ là như vậy, bất kể liệu tôi có lập kế hoạch hay không lập kế hoạch, liệu tôi có xuất hiện hay không xuất hiện, liệu tôi có thức hay ngủ vào khoảnh khắc đó. Nếu tôi vô ngã, tôi là nó. Nếu tôi không vô ngã, tôi không là nó.
Vô ngã không phải là vấn đề về mức độ như nhiệt độ thân thể, mặc dầu chúng ta vẫn thường nghĩ về mọi thứ dưới dạng mức độ. Tất cả mọi việc suy nghĩ của chúng ta đều giống thế này. Nếu nhiệt độ thân thể ai đó là chín mươi tám độ Fahrenheit (36 độ Celcius), chúng ta nói rằng người đó là bình thường. Nhưng nếu nhiệt độ của anh ta lên tới chín mươi chín độ (37 độ Celcius) chúng ta nói là anh ta bị sốt, anh ta đang tăng nhiệt độ. Chín mươi tám độ cũng là sốt, nhưng chúng ta gọi nó là sốt thường. Tại bậc thứ chín mươi chín nó trở thành bất thường; trở lại chín mươi tám nó là bình thường. Chín mươi tám độ cũng là sốt nhưng bởi vì mọi người đều có nhiệt độ như vậy, cho nên nó được gọi là bình thường. Một sai lệch nhẹ từ những trường hợp thông thường gây ra rắc rối.
Thông thường điều đó cũng hệt như với bản ngã của chúng ta; nó là cơn sốt của chúng ta. Nếu ai đó có bản ngã theo cùng mức độ như tất cả mọi người khác có, chúng ta nói rằng người đó là con người bình thường, người tốt. Hơi lệch khỏi chín mươi tám độ thông thường - nếu người đó chạm tới chín mươi chín độ của bản ngã, chúng ta nói ngay người đó là kẻ ích kỉ, người đó cao ngạo. Và trong trường hợp ai đó tụt xuống chín mươi bảy độ, chúng ta gọi người đó là người tuyệt đối khiêm nhường, một mahatma trọn vẹn, một linh hồn rất vĩ đại.
Bản ngã và không bản ngã là những điều khác nhau hoàn toàn; chúng là những trạng thái khác nhau. Chúng không liên quan tới mức độ, với số lượng. Chúng không giống như trạng thái của sốt và không sốt; chúng không được đo bằng chín mươi tám và chín mươi chín độ. Trong thực tế, chỉ trong quan hệ với người chết chúng ta mới có thể nói rằng người đó không sốt. Chừng nào còn có nhiệt thân thể, dù là bình thường hay bất thường, đó vẫn là sốt. Đó vẫn là sốt với khác biệt là chín mươi tám độ là bình thường và chín mươi chín độ là bất thường. Và nhiệt bất thường gây rắc rối về thể chất cho chúng ta; chúng ta kinh nghiệm bệnh tật bởi điều đó.
Thế rồi có một góc độ khác cho bản ngã. Nếu bản ngã của ai đó đụng chạm tới bản ngã chúng ta, chúng ta coi người đó là kẻ bản ngã. Còn nếu bản ngã của ai đó làm thoải mái cho bản ngã chúng ta, tâng bốc và xoa dịu bản ngã chúng ta, chúng ta nói người đó là người vô ngã. Nhưng cái gì là phương tiện, là tiêu chuẩn để biết điều đó? Nếu một người tới tôi theo cách ngạo mạn muốn làm cho tôi cảm thấy tầm quan trọng của người đó, chúng ta sẽ gọi người đó là kẻ bản ngã. Nhưng nếu cùng người đó tới và chạm chân tôi, chúng ta sẽ nói người đó khiêm tốn thế, tốt thế. Tiêu chuẩn nào có đó để kiểm thử điều đó? Chúng ta chỉ có một cách kiểm thử về bản ngã: với chúng ta bản ngã là điều quấy rối bản ngã riêng của chúng ta. Nếu ai đó làm tổn thương bản ngã chúng ta, người đó là kẻ bản ngã, còn nếu người đó tâng bốc bản ngã chúng ta, người đó là thánh nhân, là người khiêm tốn. Nhưng bao giờ đấy cũng là bản ngã chúng ta được lấy làm phương tiện. Chính bằng bản ngã riêng của mình mà chúng ta phán xét người khác là kẻ bản ngã hay không.
Đó là lí do tại sao chúng ta không biết trạng thái thực của vô ngã. Làm sao chúng ta có thể biết nó được? Chúng ta biết cách đo bản ngã theo mức độ, liệu nó nhiều hay ít. Nhưng nơi không có các mức độ, chúng ta tự thấy mình đâm ra khó khăn để biết điều đó, để biết cái vô ngã.
Nhưng trong vấn đề shaktipat người trung gian phải là vô ngã. Vô ngã không phải là từ đúng, cho nên tôi sẽ nói rằng chỉ người không bản ngã mới nên là người trung gian. Và tâm niệm trong đầu rằng người như vậy là người nhận ân huệ, rằng ân huệ đang mưa rào lên người đó cả hai mươi bốn tiếng một ngày. Người đó sẽ đảm đương điều đó rằng bạn nữa cũng có nếm trải về nó, nhưng chừng nào có liên quan tới người đó, thì nước cam lồ của ân huệ mưa lên người đó hết ngày nọ tới ngày kia. Đó là cách người đó có thể thấy điều rằng khi bạn cởi mở trong một hay hai khoảnh khắc, vài giọt cam lồ đó đi vào bạn qua lối mở đó.

Người hỏi: Liệu tác động của ân huệ trực tiếp lên người nhận nó có kéo dài mãi không? Và nó có thể đưa người ta tới việc đạt tới điều tối thượng không?

Ân huệ trực tiếp chỉ được nhận khi đạt tới điều tối thượng và không trước đó. Chỉ khi bản ngã của bạn tan biến thì ân huệ mới giáng lên bạn. Bản ngã là rào chắn duy nhất trên con đường đạt tới. Và việc đạt tới là trạng thái tối thượng mà sau đó không cái gì còn lại để được đạt tới nữa.

Người hỏi: sadhana là kỉ luật của kundalini hay nó là tâm linh?

Nó chính là tâm linh... Các bạn biết rằng việc ăn là vật lí, nhưng nếu các bạn không ăn, linh hồn chẳng mấy chốc sẽ rời khỏi thân thể bạn. Cho nên mặc dầu thức ăn đi vào thân thể, vậy mà vẫn cần thân thể phải ở vào một trạng thái đặc biệt để cho linh hồn ở lại trong nó. Theo cùng cách này mặc dầu kundalini là tâm linh vẫn cần kundalini là một trạng thái đặc biệt để cho bạn có thể đạt tới linh hồn. Nếu kundalini không phải là một trạng thái đặc biệt, nếu nó khác với điều nó đáng phải là vậy đối với bạn, thế thì không thể nào đạt tới linh hồn được. Cho nên mặc dầu kundalini là tâm linh, nó phục vụ như bàn đạp để đi tới tâm linh. Bản thân nó không phải là tâm linh, và nếu ai đó nói vậy thì người đó sai. Nếu ai đó nói rằng việc ăn là tâm linh, người đó sai. Việc ăn là vật lí, nhưng nó phục vụ làm cơ sở cho tâm linh.
Thở là vật chất, và ý nghĩ nữa cũng là vật chất; mọi thứ đều là vật chất. Thở và ý nghĩ thực sự là vật chất. Nhưng dạng vi tế nhất của chúng được gọi là tâm linh. Linh hồn là dạng vi tế nhất của vật chất. Nhưng tất cả chúng - hơi thở và tâm trí và tâm linh - đều phục vụ làm cơ sở cho người tìm kiếm lấy bước nhảy vào tâm linh. Chúng phục vụ như bàn nhảy để nhảy vào điều thiêng liêng. Điều đó giống như một người muốn đắm chìm vào trong dòng sông, và để làm điều đó người đó trước hết phải đứng trên ván nhún dựng thẳng trên bờ sông. Ván nhún không phải là dòng sông. Bây giờ ai đó có thể biện minh rằng vì ván nhún không phải là dòng sông thì tại sao người đó, người muốn đắm chìm vào dòng sông, phải đứng trên nó? Sao người đó không thể đứng ngay trong sông? Nhưng không ai có thể đứng trong sông với dự định để chìm vào trong nó. Trước hết người ta phải lấy chỗ đứng của mình ở trên bờ, và thế rồi người đó có thể nhảy vào trong dòng sông. Và ván nhún là tuyệt đối khác với dòng sông mà người ta chìm vào. Ván nhún không phải là dòng sông.
Cho nên chính là qua thân thể, qua tâm trí mà bạn có thể lấy bước nhảy vào tâm linh, linh hồn. Và tâm linh được đạt tới chỉ khi việc nhảy này đã được thực hiện. Hiện giờ các bạn phải chuẩn bị cho nó từ nơi các bạn đang hiện hữu tại khoảnh khắc này. Cho nên thân thể và tâm trí là bàn nhảy. Tuy nhiên, khi việc nhảy được thực hiện các bạn sẽ đạt tới tâm linh.

Người hỏi: Trong giáo huấn trước đây về thiền thầy bao giờ cũng yêu cầu chúng tôi phải thảnh thơi, tĩnh lặng và nhận biết. Còn bây giờ trong quá trình thở và hỏi mãnh liệt 'Tôi là ai?" Thầy hô hào chúng tôi đem tất cả mọi nỗ lực của mình vào trong nó. Nhưng người tìm kiếm đã thực hành kĩ thuật thiền trước đây thấy rất khó để đưa vào nỗ lực thường xuyên được duy trì. Vậy kĩ thuật nào trong hai kĩ thuật này là tốt cho người đó?


Không có vấn đề tốt và xấu ở đây. Tôi hiểu vấn đề của bạn; đấy không phải là vấn đề tốt và xấu. Bạn chỉ phải tìm ra kĩ thuật nào cho bạn nhiều an bình hơn và thêm đà cho việc thiền của bạn. Điều đó không thể là như nhau với mọi người; họ sẽ kinh nghiệm điều đó một cách khác biệt. Có những người đạt tới thảnh thơi chỉ sau khi tự họ đã chạy trên đất. Và có những người khác có thể đi vào trong thảnh thơi ngay lập tức; nhưng có vài người ở ngay giữa. Hơi khó để đi thẳng vào im lặng; chỉ một nhúm người mới có thể làm được như vậy. Với đa số mọi người đều cần trải qua nhiều việc ráng sức và căng thẳng trước khi họ có thể thảnh thơi. Nhưng mục đích trong cả hai trường hợp này là như nhau - mục đích cuối cùng là như nhau. Nó là thảnh thơi.

Người hỏi: khi giải thích về việc thở sâu và nhanh thầy nói rằng nó là một kĩ thuật cho việc biến đổi qua các cực đoan - rằng chúng tôi phải trải qua điểm cực đoan của căng thẳng để cho trạng thái thảnh thơi tuyệt đối cuối cùng được đạt tới. Nếu quả là như vậy, chúng tôi có nên coi nó là sadhana hay kỉ luật của căng thẳng không?

Nó là sadhana của căng thẳng. Nó hoàn toàn là kỉ luật của căng thẳng. Trong thực tế, mọi kỉ luật năng lượng đều là kỉ luật của căng thẳng. Bản thân năng lượng có nghĩa là căng thẳng. Chính là qua căng thẳng mà năng lượng đi vào hiện hữu. Chúng ta thành công trong việc tạo ra một khối lượng năng lượng lớn vô cùng từ nguyên tử, vì chúng ta chẻ nó thành hai và đặt các thành tố vi tế của nó vào trạng thái căng thẳng. Cho nên toàn thể kỉ luật của năng lượng là kỉ luật của căng thẳng. Nếu chúng ta hiểu nó đúng, thì bản thân căng thẳng là năng lượng.

Người hỏi: thầy nói về hai hệ thống sadhana - tích cực và tiêu cực. Sadhana kundalini là gì - tích cực hay tiêu cực?

Nó là tích cực, hoàn toàn tích cực.

Người hỏi: sao Phật không nói về kundalini và các trung tâm hay luân xa nó đi qua?

Điều này nên là phần cuối của cuộc thảo luận tối nay của chúng ta.
Trong thực tế, tất cả những điều Phật đã nói đều không được ghi lại, đó là khó khăn lớn nhất thành vấn đề. Nhiều điều từ giáo huấn của Phật đã không được ghi lại một cách có chủ tâm. Và thế rồi các giáo huấn của ông ấy đã được ghi lại năm trăm năm sau khi cái chết của Phật. Chúng đã không được ghi lại vào thời ông ấy sống. Trong năm trăm năm, các bhikkhus khất sĩ, các đệ tử của Phật, những người gìn giữ giáo huấn của ông ấy, đã từ chối cô đọng chúng lại thành việc viết.
Thế rồi đến một thời khi những người trông coi tri thức Phật giáo bản thân họ bắt đầu biến mất khỏi trái đất. Và do vậy một sangha lớn, một cuộc hội họp các Phật tử, đã được triệu tập, cuộc họp đã quyết định ghi lại các giáo huấn của Phật lần đầu tiên, bởi vì có nguy cơ thất lạc chúng hoàn toàn sau khi người cuối cùng trong các khất sĩ đang gìn giữ chúng không còn nữa.
Chừng nào mà các giáo huấn của Phật vẫn còn có thể được gìn giữ bằng lời qua kí ức, thì các đệ tử của ông ấy vẫn cứ ngoan cố từ chối đưa chúng vào việc viết ra. Cùng điều này đã xảy ra cho giáo huấn của Jesus và Mahavira. Và điều đó cần phải làm như vậy.
Có rất nhiều lí do tại sao giáo huấn của Phật và những người như ông ấy đã không được ghi lại. Thứ nhất, những người này đã thuyết giảng qua lời từ miệng, cho nên chính những lời nói ra của họ hàm chứa giáo huấn của họ. Trong số những lời này nhiều điều khác nhau đã được nói cho các loại người tìm kiếm khác nhau. Và tất cả chúng không nhất thiết có ích cho người mới bắt đầu kỉ luật tâm linh. Chúng có thể có hại cho họ.
Điều khá thường xảy ra là khi các giáo huấn được ngụ ý dành cho những người tìm kiếm bậc cao được truyền cho những người kém hơn họ thì chúng chỉ làm cho vị thế của họ không vững chắc là người học, vì thế thì họ bị tác động bởi ý tưởng lao vào giai đoạn nâng cao và bỏ qua phần bài tập riêng của mình. Cũng có khó khăn khác đối với vấn đề này. Nhiều điều được dạy cho người mới bắt đầu trở thành không chỉ thừa mà thậm chí còn sai đối với người tìm kiếm cao cấp. Cho nên nếu người mới bắt đầu mà biết mọi điều được dạy cho người học cao cấp quá sớm, họ sẽ không làm bài tập riêng của mình một cách nghiêm chỉnh và thực sự. Và trong biến cố đó họ sẽ bị mắc kẹt; họ không thể tiến thêm được nữa. Do đó điều rất cần thiết cho các giáo huấn này là phải đúng cho họ ngay ở giai đoạn riêng của họ. Chỉ thế thì họ mới học đúng và có tiến bộ trong kỉ luật tâm linh.
Khi một đứa trẻ học bảng chữ cái, nó được dạy phải nói "G thuộc vào God (Thượng đế)." Bây giờ thực sự không có nghĩa gì mà nói như vậy; "G" có thể thuộc vào goblin (yêu tinh) nữa. Và không có mối quan hệ nào giữa Thượng đế và yêu tinh cả; chúng không thuộc vào cùng phường hội. Trong thực tế, "G" không có bất kì mối nối nào với Thượng đế hay yêu tinh cả. Nhưng nói điều đó cho trẻ con cũng là điều nguy hiểm khi chúng học bảng chữ cái. Nếu bố nó bảo nó, "Con ngu lắm, "G" chẳng có liên quan gì với Thượng đế cả; "G" có thể thuộc về cả nghìn lẻ một thứ nữa; nó không chỉ thuộc vào mỗi Thượng đế", thế thì đứa con sẽ chẳng bao giờ học được chữ cái "G". Do đó điều cần thiết là với hiện tại chỉ nên nói cho nó rằng "G" thuộc vào "God" (Thượng đế). Gạt sang bên cả nghìn lẻ một thứ khác có liên quan với nó đi. Chỉ cần thế là đủ nếu nó học "G" trong mối liên hệ với Thượng đế. Về sau nó cũng sẽ học cả nghìn lẻ một thứ khác; và thế rồi nó tự mình sẽ biết rằng "G" không chỉ dành riêng được nối với Thượng đế. Ngay khi được nối với Thượng đế, nó được nối với nhiều từ khác. Và thế thì Thượng đế sẽ bị bỏ qua và nó sẽ biết "G" một cách độc lập.
Cho nên trong kỉ luật tâm linh có hàng nghìn điều thuộc vào hàng nghìn mức. Và thế rồi có vài điều rất cá nhân và bí mật và bí truyền. Thiền mà tôi đang dạy cho các bạn bây giờ là điều có thể được nói ở chỗ công cộng; nhưng có những điều tôi không thể thảo luận được trong nhóm lớn; tôi sẽ không nói. Tôi sẽ nói về chúng chỉ với những cá nhân được chọn lựa, những người xứng đáng.
Cho nên mặc dầu Phật đã nói nhiều, tất cả những điều đó đã không được ghi lại. Theo cùng cách này, không phải mọi điều tôi sẽ nói sẽ được ghi lại. Tất cả chúng không thể được qui về việc viết. Đầu tiên tôi sẽ chỉ nói rằng nhiều điều công khai có thể được ghi lại mà không có nguy cơ nào. Ở chỗ công khai tôi sẽ chỉ nói vậy thôi. Và điều cần được xem xét và bảo tồn như những giáo huấn bí mật sẽ không bao giờ được tiết lộ ra cho công luận. Tôi sẽ truyền chúng cho những cá nhân xứng đáng người sẽ ghi nhớ chúng trong kí ức của mình.

Người hỏi: điều đó có ngụ ý rằng vấn đề kundalini và những luân xa khác nên được coi như bí mật và không được ghi lại chút nào không?

Không, có nhiều điều khác được bao hàm trong nó. Không có khó khăn gì trong việc ghi lại điều tôi đã nói ở đây trong những ngày này về vấn đề kundalini và luân xa. Không có khó khăn về bất cứ điều gì. Khó khăn của tôi là ở chỗ có lỗ hổng hai nghìn năm trăm năm giữa Phật và thời đại chúng ta, và điều đó đã tạo nên khác biệt lớn; qua thời kì này tâm thức con người đã phát triển. Tôi bây giờ nghĩ có nhiều điều mà Phật cho là nên được giấu kín thì bây giờ rất có thể đưa ra công khai. Hai mươi nhăm thế kỉ đã tạo nên khác biệt cơ bản. Cho nên tôi nói rằng rất nhiều điều Phật đã coi là bí mật bây giờ có thể được dạy công khai. Tương tự nhiều điều mà tôi coi là bí mật có thể được để lộ ra hai nghìn năm trăm năm sau tôi, với điều kiện là tâm thức con người tiến hoá theo cách nó phải thế.
Các bạn có hiểu điều tôi đang nói không? Ngay cả nếu Phật có quay lại, ông ấy cũng sẽ tiết lộ nhiều điều ông ấy đã giữ lại vào thời của mình.
Phật đã làm một điều có tính hiểu biết và quan trọng lớn lao. Ông ấy đã quyết định với mười một câu hỏi rằng không ai được phép hỏi ông ấy. Bởi vì nếu bất kì câu hỏi nào trong chúng mà được hỏi ông ấy, ông ấy sẽ phải trả lời chúng theo cách này nọ. Và trong khi đưa ra câu trả lời sai cho chúng là điều không đúng, thì thực sự là sai khi đưa ra câu trả lời đúng. Cho nên ông ấy đã quyết định với mười một câu hỏi rằng chúng bị cấm, bởi vì chúng là không thể giải thích được. Trước khi Phật vào một thị trấn, đều có công bố công khai rằng không ai được nêu ra mười một câu hỏi đó cho Phật, vì ông ấy sẽ không trả lời chúng. Cho nên công bố này nói đừng ai làm cho Phật lúng túng.
Và có lí do chính đáng cho Phật để từ chối trả lời chúng. Sẽ có hại nếu ông ấy trả lời chúng, và nếu ông ấy từ chối trả lời chúng, ông ấy sẽ cảm thấy mặc cảm rằng ông ấy đã kìm hãm chân lí. Cho nên cách tốt nhất là chúng không nên được nêu ra chút nào.
Cho nên mọi làng đều được thông báo bằng tiếng trống rằng khi Phật tới thăm họ, phải không được đặt ra mười một câu hỏi này cho ông ấy, bởi vì điều đó sẽ gây lúng túng cho ông ấy. Những câu hỏi này đã được xem như avyakhya, câu hỏi không thể giải thích được. Và chúng thực sự đã không được nêu ra; người ta chưa bao giờ đặt chúng ra cho Phật.
Và bất kì khi nào người đối lập với ông ấy cứ khăng khăng nêu nó ra, Phật sẽ nói với người đó, "Đợi chút thời gian nữa, và đồng thời làm vài sadhana. Và khi ông xứng đáng cho điều đó, ta sẽ trả lời câu hỏi của ông."
Nhưng ông ấy chẳng bao giờ thực sự trả lời cả. Và đây là điều những người chỉ trích và đối lập ông ấy thường hay dùng để chống lại ông ấy. Người Jainas và người Hindus cho là Phật đã không trả lời những câu hỏi này chỉ bởi vì ông ấy không biết câu trả lời. Họ cũng nói rằng vì kinh sách riêng của họ đã trả lời cho từng câu hỏi đó, nên dường như là Phật thiếu tri thức. Nhưng những người chỉ trích ông ấy đã quên mất rằng với Phật việc lặp lại câu trả lời của kinh sách thì quá dễ dàng nếu ông ấy muốn trả lời chúng.
Sự thực là ở chỗ câu trả lời đúng không được viết ra ngay trong kinh sách; chúng thực sự không có khả năng.
Cho nên câu hỏi này không nảy sinh tại sao Phật đã không nói về kundalini và các luân xa.


Chương 10. Thiền không lời cầu nguyện có tương lai lớn

Người hỏi: Thầy nói tại trại thiền Nargol tổ chức gần đây, rằng sadhana hay kỉ luật về kundalini là cách chuẩn bị thân thể. Xin thầy giải thích điều đó?

Trước hết, thân thể và linh hồn trong chính chiều sâu của chúng là không tách rời; khác biệt giữa chúng là rất bề mặt. Khi toàn thể chân lí của nó được biết tới, chúng ta không còn thấy thân thể và linh hồn như hai thực thể tách biệt; chúng ta thực sự thấy chúng là một và như nhau. Trong thực tế, thân thể là phần của linh hồn có thể được lĩnh hội qua các giác quan, còn linh hồn là phần của thân thể ở bên ngoài lĩnh hội của các giác quan. Cho nên linh hồn là đầu vô hình của thân thể, còn thân thể là đầu hữu hình của linh hồn.
Nhưng điều này được biết tới chỉ khi người ta đi tới việc kinh nghiệm tối thượng về chân lí.
Điều kì cục là nói chung chúng ta tất cả đều tin rằng thân thể và linh hồn là một và cùng một thứ. Nhưng tin chung này là ảo tưởng, bởi vì chúng ta thực sự không biết linh hồn là gì. Thay vì thế chúng ta lấy thân thể thế cho linh hồn. Nhưng ngay cả ảo tưởng và niềm tin phổ biến này cũng đều xuất phát từ cùng một chân lí cơ sở - đằng sau nó có cùng tri thức về sự thống nhất này; ở nơi sâu kín vô hình nào đó của bản thể mình chúng ta có biết rằng thân thể và linh hồn là một.
Tuy nhiên, tri thức về tính một này làm nảy sinh ra hai loại lỗi lầm. Một mặt có những người duy tâm, người nói rằng chỉ có linh hồn và không có thân thể; và mặt khác, có những người duy vật như Charvaka và Epicurus, người tuyên bố rằng chỉ có thân thể và không có linh hồn. Hai quan niệm sai lầm này, mâu thuẫn lẫn nhau, đều phát sinh từ cùng một hiện thực sâu sắc là thân thể và linh hồn là không tách rời.
Và như những người duy vật, mọi người thường - người chúng ta nói là dốt nát - đều cho rằng mình chỉ là thân thể.
Nhưng khi cuộc hành trình nội tâm bắt đầu, niềm tin rằng thân thể và linh hồn là một sẽ bị tan nát, và người ta sẽ đi tới biết ra rằng chúng là tách biệt. Bởi vì ngay khi người ta biết rằng có linh hồn, người đó cũng biết rằng thân thể là tách rời và linh hồn cũng tách rời.
Nhưng điều này xảy ra trong giai đoạn trung gian của cuộc hành trình. Khi bạn đi sâu hơn và sâu hơn nữa, khi bạn đạt tới kinh nghiệm tối thượng, bạn sẽ biết rằng chúng không tách rời. Chúng thực sự là một và như nhau; chúng là các dạng khác nhau của cùng một thực tại.
Điều đó giống như tôi là một người với hai tay - tay phải và tay trái. Nếu ai đó quan sát hai tay tôi từ bên ngoài và nói rằng chúng là một và như nhau, thì người đó sai, bởi vì chúng là hai tay rõ ràng tách rời lẫn nhau. Lại gần tôi hơn người đó sẽ biết rằng tay trái tôi là hoàn toàn tách rời với tay phải. Có thể, tay trái tôi bị đau còn tay phải tôi không đau. Có thể tay phải bị đứt rời còn tay trái thì vẫn tốt. Cho nên hai tay này hiển nhiên không là một và không như nhau. Nhưng nếu ai đó đi vào lãnh thổ của tôi người đó sẽ thấy rằng tôi là một người và cả hai tay đều là của tôi. Khi tay trái bị gẫy thì chính tôi là người bị đau; và khi tay phải bị gẫy, lại chính tôi là người chịu đựng. Và theo cùng cách này khi tay trái giơ lên, thì chính tôi là người giơ nó lên, còn khi tay phải được giơ lên, lại chính là tôi đang giơ nó lên.
Cho nên trong kinh nghiệm tối thượng thân thể và linh hồn là không tách rời; chúng là hai mặt, như hai tay tôi, của cùng một chân lí. Tôi đem ra tương tự này để cho bạn hiểu sự việc được rõ.
Thế thì cuộc hành trình có thể được bắt đầu từ bất kì điểm nào trong hai điểm này - hoặc là từ thân thể hoặc là từ linh hồn. Nếu ai đó bắt đầu nó với thân thể và cứ đi ngày một sâu hơn vào trong nó, người đó chung cuộc sẽ đạt tới linh hồn. Điều đó cũng giống như ai đó cầm tay phải của tôi và đưa lên; người đó sớm hay muộn sẽ đạt tới tay trái tôi. Tương tự ai đó có thể bắt đầu trực tiếp bằng linh hồn và cuối cùng đạt tới thân thể.
Tuy nhiên rất khó bắt đầu bằng linh hồn. Nó khó bởi vì linh hồn không được chúng ta biết tới. Vì chúng ta gần như tồn tại ở bình diện vật lí, cuộc hành trình của chúng ta chỉ có thể bắt đầu với thân thể. Tuy nhiên có những kĩ thuật trực tiếp bắt đầu với linh hồn; nhưng nói chung chúng có ích chỉ cho rất ít người. Một trong hàng triệu người mới có thể dùng những kĩ thuật bắt đầu với linh hồn. Tuyệt đại đa số mọi người sẽ phải bắt đầu với thân thể. Cuộc hành trình của người ta chỉ có thể bắt đầu tại nơi họ đang ở.
Và để bắt đầu cuộc hành trình với thân thể thì kundalini bao hàm công việc chuẩn bị. Kundalini là chỗ cơ bản của những kinh nghiệm sâu sắc nhất về thân thể.
Trong thực tế, thân thể không chỉ là điều chúng ta biết nó đang là vậy, hay các nhà sinh lí học biết; nó còn nhiều hơn thế nhiều. Chẳng hạn, cái quạt đang bật đây. Nếu chúng ta tháo chiếc quạt xuống và dỡ nó ra thành từng phần để khảo cứu nó, chúng ta sẽ không bắt gặp điện ở đâu cả. Và có thể, trên cơ sở của việc khảo cứu này một người rất thông minh nói rằng không có những thứ như điện trong máy móc của quạt. Người đó sẽ không bao giờ thấy nó ở bất kì phần nào của chính chiếc quạt. Vậy mà sự kiện là ở chỗ khi quạt chuyển động, nó được điện làm cho quay. Và chiếc quạt sẽ dừng chuyển động vào khoảnh khắc dòng điện dừng không tới nó nữa. Các nhà sinh lí học nghiên cứu thân thể bằng việc giải phẫu nó và họ không tìm thấy kundalini ở đâu cả. Họ sẽ không bao giờ tìm thấy được nó. Vậy mà toàn thể thân thể được điều khiển bằng năng lượng điện chính là kundalini, tựa như quạt chạy bằng điện. Năng lượng điện này của kundalini không thể được biết qua những phân tích được thực hiện từ bên ngoài, bởi vì trong quá trình phân tích năng lượng tan rã và biến mất. Nó chỉ có thể được biết tới qua việc kinh nghiệm bên trong về nó.
Có hai cách để biết thân thể. Các bạn có thể biết nó từ bên ngoài như nhà sinh lí học làm bằng việc giải phẫu nó - đây là một cách; và cách kia là biết nó từ bên trong nó. Người đi sâu vào bên trong nó và sống ở đó thì biết nó từ bên trong.
Người ta bắt đầu biết thân thể mình từ bên trong... Và nhớ lấy, chúng ta biết thân thể mình từ bên ngoài. Ngay cả thân thể riêng của mình chúng ta cũng biết tới chỉ từ bên ngoài. Nếu tôi biết tay trái tôi, tôi biết nó qua mắt đã thực sự thấy chúng. Cho nên tri thức của tôi về tay trái tôi thực sự là tri thức của nhà sinh lí học. Nhưng nếu tôi nhắm mắt lại và cảm thấy tay trái tôi, việc cảm bên trong này về nó sẽ là của riêng tôi. Cho nên nếu ai đó đi tới biết thân thể mình từ bên trong, người đó sẽ sớm đạt tới kunda, kho chứa, chính là cội nguồn của tất cả năng lượng thân thể của chúng ta. Năng lượng nằm ngủ tại kunda này, tại bể này, được gọi là kundalini. Và thế thì người đó sẽ biết cho chính mình rằng mọi thứ bắt nguồn từ đó và toả khắp toàn bộ thân thể. Nó cũng giống như ngọn đèn cháy lên và chiếu sáng cả căn phòng. Nếu bạn thám hiểm vào cội nguồn của ánh sáng đang tràn ngập toàn bộ căn phòng, bạn sẽ đi tới chiếc đèn này và thấy rằng tất cả mọi tia sáng đều phát ra từ ngọn lửa này. Thế thì bạn sẽ biết rằng mặc dầu các tia sáng đã đạt tới những góc phòng ở xa, vậy mà chiếc đèn vẫn còn là cội nguồn của chúng.
Ở đây chúng ta quan tâm tới việc tìm kiếm điểm đặc biệt đó mà từ đó sinh lực phát ra và tràn ngập toàn thể thân thể chúng ta. Sinh lực phải có một trung tâm; không năng lượng nào có thể hiện hữu mà không có cội nguồn. Mặc dầu mặt trời ở xa chúng ta một trăm triệu dặm, vậy mà chúng ta vẫn có những tia sáng của nó chiếu tới mình; chúng ta có thể nói rằng phải có một trung tâm, một cội nguồn từ đó chúng phát ra và tràn ngập trái đất. Trong thực tế, không năng lượng nào có thể hiện hữu mà không có trung tâm; nếu có năng lượng, nó phải có trung tâm. Làm sao có thể có vòng tròn, đường tròn, mà không có trung tâm? Nơi có đường tròn chắc chắn cũng có trung tâm nữa.
Điều thân thể bạn là chùm năng lượng là hiển nhiên; điều đó không cần chứng minh. Nó là đống năng lượng dâng lên và hạ xuống, di chuyển và dừng lại và đi vào giấc ngủ. Và không phải là năng lượng của nó bao giờ cũng vận hành một cách đều đặn; đôi khi nó tích cực và mạnh mẽ và vào lúc khác nó lại vào trạng thái lờ phờ, suy nhược và trì trệ. Khi bạn giận dữ bạn ném mạnh hòn đá lớn vào ai đó, hòn đá mà bạn khó có thể di chuyển được trong trạng thái bình thường. Khi bạn đang rất hoảng sợ bạn chạy với tốc độ mà vận động viên chạy phải thèm muốn trong các cuộc đua Olympic. Cho nên năng lượng của bạn không phải bao giờ cũng trong cùng trạng thái; nó thăng giáng theo hoàn cảnh bên trong và xung quanh bạn.
Do đó hiển nhiên là bạn có một loại kho dự trữ, một nguồn, từ đó năng lượng đi vào trong hành động hay không đi vào hành động. Nó đi vào trong hành động bất kì khi nào cần thiết; bằng không thì nó nằm ngủ tại nguồn. Từ nguồn này bạn rút ra năng lượng trong cả hai hoàn cảnh bình thường hay bất thường - trong nhu cầu hàng ngày của bạn và cả trong những trường hợp khẩn cấp của bạn. Vậy mà kho dự trữ này chẳng bao giờ trống rỗng, nó bao giờ cũng đầy; bạn không thể làm cạn kiệt nó được. Nó không bao giờ hết.
Điều thú vị là biết rằng chúng ta chẳng bao giờ dùng hết kho năng lượng lớn này của mình. Những người đã thám hiểm lĩnh vực này đều nói rằng ngay cả những người phi thường nhất, những người nổi tiếng là các thiên tài, cũng không dùng quá mười lăm phần trăm năng lượng của mình. Ngay cả những vĩ nhân của lịch sử - những người làm nên lịch sử - cũng không vượt quá giới hạn mười lăm phần trăm này. Và khi có liên quan tới người thường, người đó đi qua toàn bộ cuộc đời mình chỉ với hai tới hai phẩy năm phần trăm của nó; chín mươi tám phần trăm năng lượng của người đó không được dùng tới.
Cho nên về mặt tiềm năng, theo quan điểm về năng lượng mầm mống, không có khác biệt giữa người phi thường và người bình thường. Khác biệt là dùng và không dùng năng lượng. Năng lượng mà người thiên tài đã đưa vào sử dụng cũng hệt như người rất bình thường có mà không dùng nó. Người thường là người không bao giờ tập trung năng lượng của mình vào hành động; người đó không bao giờ huy động nó, đem nó ra đương đầu với thách thức. Người đó thoả mãn với cái nhỏ bé mình có trên bề mặt, điều người đó nghĩ là cái tối đa của mình. Người đó làm với cái tối thiểu của mình và bỏ lại tiềm năng bao la không được động tới. Và đó là lí do tại sao trong khoảnh khắc của khủng hoảng, thậm chí người bình thường nhất cũng thể hiện sức mạnh và khả năng phi thường. Cho nên chỉ trong khoảnh khắc khủng khoảng chúng ta mới đi tới biết tiềm năng bên trong của mình là gì.
Có một trung tâm trong từng người chúng ta nơi toàn thể năng lượng này cư ngụ - ẩn kín và ngủ. Người ta phải nói rằng nó nằm đó dưới dạng hạt mầm – đóng kín và tiềm tàng; nhưng nó có thể trở thành biểu lộ. Và nó được gọi là kunda, cái bể, hay kho dự trữ.
Từ "kunda" rất có ý nghĩa; nó có nhiều nghĩa. Một nghĩa là ở chỗ nó là cái bể tĩnh lặng và thanh bình không gợn sóng. Nếu cho dù một gợn sóng có đó thôi, điều đó sẽ có nghĩa là năng lượng này trở nên tích cực. Kunda nghĩa là nội dung của nó, năng lượng của nó, không có chuyển động nào; nó hoàn toàn thụ động, bình thản và nghỉ ngơi. Và nghĩa khác là ở chỗ mặc dầu nó thụ động và ngủ, bất kì khoảng khắc nào nó cũng đều có thể trở thành tỉnh táo, tích cực và chuyển động. Nó không phải là cái bể khô và chết; nó tràn đầy ăm ắp. Và bất kì khoảnh khắc nào nó cũng đều có thể trở thành tích cực, năng động; mặc dầu ngay bây giờ nó ở trong trạng thái thụ động, đang ngủ.
Điều đó có thể là lí do tại sao chúng ta không biết cái gì đang ngủ bên trong mình. Chúng ta chỉ có thể biết khi nó trở nên thức dậy và tích cực, chỉ phần tích cực của năng lượng này đi vào ý thức của các bạn, còn phần thụ động của nó vẫn nằm ngủ trong vô thức của các bạn. Đó là lí do tại sao ngay cả những người vĩ đại nhất, chừng nào họ còn chưa đạt tới tính vĩ đại, vẫn còn không nhận biết về năng lượng này. Mahavira, Phật, Krishna và Jesus, không ai trong số họ đã nhận biết về tiềm năng của mình khi họ chưa hiện thực hoá nó, khi họ chưa đạt tới chiều cao của tính vĩ đại của họ.
Đó là lí do tại sao khi biến cố về việc thức tỉnh xảy ra một cách vô nỗ lực, người thức tỉnh đi tới tin rằng đó là món quà của ân huệ từ điều không biết. Họ tự hỏi làm sao và khi nào món quà này tới họ. Và do vậy họ cảm thấy rằng nó tới từ bất kì ai ở gần họ nhất. Nếu thầy là người gần gũi nhất, họ sẽ nói nó là món quà từ thầy.
Còn nếu đối tượng gần gũi nhất là một thần tượng về Thượng đế, và không phải là thầy, họ sẽ qui tất cả mọi công lao cho chính thần tượng đó. Bất kì cái gì đi ngay trước biến cố này - một Phật, hay Thượng đế trên trời - sẽ được lấy làm cội nguồn. Nhưng sự kiện là ở chỗ nó bao giờ cũng tới từ chính cội nguồn bên trong riêng của họ. Nhưng bởi vì không nhận biết quá khứ của mình mà họ qui cho tác nhân bên ngoài nào đó như thầy hay Thượng đế, điều xảy ra gần nhất với biến cố đó.
Tôi tình cờ hôm vừa rồi mới đọc một câu chuyện. Hai nông dân lên tàu hoả lần đầu tiên. Họ là cư dân của một làng vùng núi non và họ được sinh ra vào cùng ngày. Cho nên khi ngày sinh của họ tới, mọi người trong làng nghĩ tới việc cho họ món quà sinh nhật nào đó. Và khi đường ray tàu hoả vừa mới được dẫn tới phần quê của họ, thì không thể có món quà nào tốt hơn là một chuyến đi tàu hoả cho họ. Cho nên các nông dân này nhận được hai vé tàu hoả từ làng mình, và bắt đầu đi du lịch lần đầu tiên bằng tàu hoả.
Vì đó là kinh nghiệm hoàn toàn mới đối với họ, họ kích động và tò mò về mọi điều xảy ra trên đường của mình. Một người bán nước ngọt ngẫu nhiên đi ngang qua và họ quyết định mua một chai nước ngọt và nếm thử nó. Họ đã quyết định cùng uống chai nước ngọt và nếu họ thấy ngon, thì họ sẽ mua cho mình chai nữa.
Mua xong chai nước, một người trong số họ bắt đầu uống phần của mình. Khi anh ta uống được nửa chừng thì tàu hoả đi vào đường hầm. Vào lúc này anh bạn anh ta trở nên lo âu về phần nước của mình và anh ta bảo người kia đừng có uống hết. Bạn anh ta nói, "Vì Thượng đế, xin anh đừng chạm vào nó; nó là chất độc đấy! Tôi đã bị nó làm cho mù đây này!"
Khi tàu hoả đi vào đường hầm, trời trở nên tối mò khắp xung quanh và người nông dân này nghĩ rằng nước uống đã làm cho anh ta bị mù. Cho nên biến cố gần nhất - việc uống - đã được coi là nguyên nhân cho sự mù. Điều đó là tự nhiên. Cái gì đi ngay trước một biến cố đều được lấy làm nguyên nhân cho nó.
Tương tự vậy, chúng ta không biết nguồn gốc thực của năng lượng của mình. Và chừng nào còn chưa được thức tỉnh, thì không có cách nào để biết được nó. Và chúng ta không nhận biết liệu nó có thể sẵn có cho chúng ta không, và bằng cách nào nó có thể có sẵn được.
Phần thức tỉnh của năng lượng ngủ này, kunda, được gọi là kundalini. Bản thân kunda là vô ý thức, nó ngủ; nhưng kundalini là ý thức và thức tỉnh. Chỉ phần của năng lượng này thức dậy và đi ra khỏi kunda mới được biết là kundalini. Kundalini không phải là toàn thể nó; đấy chỉ là con sóng nảy sinh ra từ bể này.
Cho nên cuộc hành trình này là việc thám hiểm hai phần. Kundalini, năng lượng thức tỉnh, đưa bạn tới những cái mới có cội nguồn rất lớn ẩn bên trong bạn với những khả năng mênh mông. Một tia sáng mặt trời mở ra khả năng cho vô hạn tia sáng tới trong sự thức dậy của nó. Cho nên một phần nằm ở việc thức tỉnh kundalini điều sẽ làm cho bạn nhận biết hoàn toàn về quyền năng của thân thể bạn. Và qua việc thức tỉnh của năng lượng này các bạn sẽ đi tới những trung tâm đó, những cánh cửa đó của thân thể bạn, từ đó việc đi sang đầu vô hình của thân thể, điều chúng ta gọi là linh hồn, trở thành dễ dàng.
Cần phải hiểu điều này một cách rõ ràng và đầy đủ, bởi vì bất kì điều gì chúng ta làm, thực sự đấy chính là năng lượng của chúng ta làm nó thông qua lối mở hay trung tâm nào đó. Chẳng hạn, tai chúng ta là một lối mở như vậy, qua đó chúng ta nghe được. Nếu tai bạn bị bệnh, bạn sẽ không có khả năng nghe thấy gì, bởi vì năng lượng này sẽ bị chặn lại không tới được tai, và nó sẽ quay ngược trở về nguồn của nó. Và dần dần năng lượng này sẽ dừng đi vào tai, bởi vì nó chỉ di chuyển tới nơi nó có cơ hội trở thành tích cực. Cho nên năng lượng này sẽ không còn chuyển tới tai nữa.
Mâu thuẫn có thể xảy ra nữa. Nếu một người bị điếc và người đó rất muốn nghe từ ngón tay của mình, thì có thể là ngón tay người đó sẽ bắt đầu nghe thấy. Có những người hiện diện trên trái đất này nghe qua các cơ quan thân thể không là tai. Và có những người nhìn thấy được qua các cơ quan khác mắt. Thực sự đó là cái gì mà bạn gọi là mắt?
Nó không là gì ngoài một phần của da bạn, với khác biệt này - rằng từ thời xa xưa con người đã dùng phần đặc biệt này của da của mình cho ý định nhìn. Chắc phải là ngẫu nhiên mà con người đầu tiên đã dùng phần đó của thân thể mình cho ý định này; người ta cũng có thể đã dùng bất kì phần nào khác cho việc đó. Các sinh linh khác thực sự dùng các phần khác và hệ quả là mắt chúng xuất hiện ở các phần khác nhau của thân thể chúng. Có con vật và chim chóc và sâu bọ đã phát triển hai bộ mắt - một bộ là mắt thực và bộ kia là mắt giả. Khi chúng nhìn bằng mắt thực của mình, chúng dùng mắt giả để lừa kẻ thù. Trong trường hợp kẻ thù làm thương tổn mắt chúng, mắt thật của chúng được cứu. Một con ruồi rất bình thường trong nhà bạn có một nghìn con mắt; một con mắt của nó thực sự là tuyển tập của một nghìn mắt. Đó là lí do tại sao khả năng thấy của ruồi khổng lồ và đáng ngạc nhiên. Một số cá thấy được cả đuôi của chúng, bởi vì chúng sợ kẻ thù đánh chúng từ đằng sau.
Nếu chúng ta làm một khảo cứu về mắt của tất cả các sinh linh trên thế giới, chúng ta sẽ biết rằng không nhất thiết là mắt phải ở nơi chúng hiện đang ở. Tương tự, không có nghĩa đặc biệt nào trong việc có tai của chúng ta theo cách chúng hiện hữu. Chúng thực sự có thể ở bất kì chỗ nào. Vị trí của mắt và tai người là kết quả của việc lặp lại vô số lần các hành động thấy và nghe từ cùng một chỗ. Và hệ quả là kí ức của chúng đã được khắc hoạ và cố định sâu sắc nhất vào tâm thức chúng ta. Cho nên chúng được lặp lại một cách máy móc và dễ dàng.
Ngay cả một trong nhiều giác quan chúng ta có mà mất đi, chúng ta sẽ mất phần đó của thế giới vẫn được làm có sẵn cho chúng ta qua nó. Nếu chúng ta mất mắt, thế giới của ánh sáng sẽ bị mất đối với chúng ta; chúng ta sẽ dừng kinh nghiệm ánh sáng. Thế thì chúng ta sẽ không biết ánh sáng cho dù chúng ta có tai và tay và các giác quan khác tốt.
Cho nên khi kundalini bắt đầu thức dậy và dâng lên, nó sẽ gõ vào những cánh cửa mới của thân thể bạn, không phải thông thường chút nào. Qua những giác quan phi thường này - sau khi chúng được kích thích bởi năng lượng của kundalini - bạn bắt đầu biết những điều mà bạn không thể biết được qua các giác quan thông thường. Nói một cách đúng đắn, kundalini bắt đầu điểm và đánh thức các giác quan bên trong của bạn. Ngay cả bây giờ cũng là qua năng lượng này của kundalini mà mắt và tai và các giác quan bình thường khác của bạn hoạt động. Nhưng đây là các cơ quan ngoài cần một khối lượng năng lượng kundalini rất nhỏ để làm việc. Tăng thêm chút ít về khối lượng này, và bạn sẽ có năng lượng phụ dùng để kích hoạt các trung tâm khác nữa.
Chẳng hạn, nếu chúng ta rót một ít nước lên sàn ở đây, nó sẽ tạo thành một kênh chảy nhỏ, để lại một vệt đằng sau nó để nhiều nước hơn chảy theo. Nhưng nếu khối lượng nước đổ ra tăng lên thật lớn, nó sẽ phá ra thành nhiều kênh mới, bởi vì kênh cũ không thể một mình nó chứa đựng được tất cả nước.
Theo nghĩa vật lí sâu sắc hơn, thức tỉnh của kundalini nghĩa là bạn có nhiều năng lượng trong mình tới mức các kênh cũ của bạn không có khả năng chứa nó, và do vậy nó tìm kiếm không cưỡng lại được những đại lộ mới và cửa mới. Kết quả là nhiều giác quan mới và tinh tế bên trong bạn sẽ trở nên thức dậy và hoạt động. Những trung tâm ngoại cảm này sẽ làm cho các bạn thành có khả năng ngoại cảm và thấu thị; các bạn sẽ bắt đầu thấy và nghe được những điều ở bên ngoài tầm của mắt và tai bình thường của mình. Các bạn sẽ kinh nghiệm những điều nào đó mà các giác quan thông thường của bạn chẳng có liên quan chút nào. Các giác quan mới này sẽ trở thành tích cực bên trong bạn. Và kết quả sâu lắng nhất của việc tăng cường các giác quan mới này sẽ là ở chỗ các bạn sẽ bắt đầu biết tới thế giới vô hình nằm ẩn kín trong thân thể mình, vốn là phần tinh tế nhất và không thể nhận thấy được của thân thể bạn, và là điều chúng ta gọi là atman hay linh hồn. Cho nên với việc thức tỉnh của kundalini các khả năng cho trưởng thành của bạn sẽ được nâng cao lên rất nhiều.
Nhưng công việc phải bắt đầu với thân thể.
Có cách khác nữa mà tôi đã loại ra ngoài từ trước tới nay. Tôi đã giải thích cho tới nay cho các bạn điều nói chúng cần phải được làm để đánh thức kundalini; nhưng kundalini không phải là toàn thể kunda hay bể. Còn có cách khác mà tôi có thể phải nói với các bạn một cách tách biệt. Rất ít người trên thế giới đã lấy con đường này. Đấy không phải là con đường thức tỉnh kundalini chúng ta đã quen thuộc, mà là được hội nhập vào trong chính kunda. Điều đó không giống như việc đánh thức một phần nhỏ của năng lượng này và dùng nó cho sự phát triển; đó là vấn đề hội nhập toàn thể tâm thức chúng ta vào trong kunda hay bể năng lượng nguyên thuỷ. Trong biến cố đó sẽ không có kinh nghiệm ngoại cảm nào cả, và ngay cả kinh nghiệm về linh hồn cũng bị mất đi hoàn toàn. Trong biến cố đó, người ta sẽ đương đầu trực tiếp và kinh nghiệm Thượng đế, điều tối cao.
Qua việc đánh thức kundalini, kinh nghiệm đầu tiên tới trên con đường của bạn là về linh hồn. Với nó, các bạn nhận ra rằng linh hồn mình là tách biệt với linh hồn của những người khác. Những người đã đạt tới bằng việc thức tỉnh kundalini thường tin vào sự tồn tại của nhiều linh hồn. Họ nói rằng có nhiều linh hồn như có bấy nhiêu người đang sống trên trái đất, rằng mọi người đều có linh hồn tách biệt. Nhưng những người đã hội nhập bản thân mình trực tiếp vào trong kunda nói rằng không có linh hồn, chỉ có Thượng đế; không có gì ngoài Thượng đế. Họ nói chỉ có một, không có nhiều. Bởi vì bằng việc nhận chìm bản thân mình vào trong kunda, bạn không chỉ hội nhập với kunda riêng của mình, mà còn hội nhập với kunda của tất cả, kunda tập thể, kunda vũ trụ. Kunda là một. Không phải kunda của tôi và kunda của bạn và kunda của anh ấy là những thực thể tách biệt; nó là một và như nhau.
Đó là lí do tại sao năng lượng của kunda mênh mông và vô hạn. Bạn có rút ra từ nó bao nhiêu năng lượng cũng chẳng thành vấn đề, bạn không thể làm giảm nội dung của nó cho dù chỉ là một giọt; nó cứ còn đầy tràn và toàn thể. Bạn có thể rút ra bất kì lượng năng lượng nào cho việc chi dùng của mình, điều đó chẳng tạo ra khác biệt gì trong nội dung của nó; nó bao giờ cũng đầy và không hề cạn. Nhưng cái chúng ta rút ra từ nó chúng ta có khuynh hướng gọi là của riêng mình. Điều đó cũng giống như lấy nước từ đại dương và cất nó vào bình nhỏ tách biệt của chúng ta. Và chúng ta nghĩ rằng nội dung của bình chứa của chúng ta là khác với bình chứa của người khác. Nhưng nếu ai đó hội nhập bản thân mình với toàn thể biển cả, người đó sẽ nói rằng biển là một, rằng nước trong các bình khác nhau đều là một phần của cùng một biển, và nó sẽ trở lại cội nguồn của nó lần nữa. Bạn không thể giữ nó tách rời khỏi biển lâu được. Chẳng mấy chốc nước trong bình sẽ bay hơi trong nhiệt của mặt trời, thế rồi biến thành mây, và trở lại biển dưới dạng mưa. Thực sự nó đã không bị tách rời khỏi cội nguồn của nó, nó không thể thế được.
Những người tìm kiếm làm việc qua đánh thức kundalini đều có kinh nghiệm ngoại cảm, vốn là những kinh nghiệm thực sự phi thường và duy nhất. Chúng thực sự là phiêu diêu. Và những người này đi tới nhận ra linh hồn chỉ là một phần của Thượng đế, hay điều tối cao. Do vậy họ cố gắng nhận ra cái toàn thể qua bộ phận của nó. Điều đó giống như những người khác nhau chạm tới đại dương mênh mông từ những bến bờ khác nhau và xa cách của nó. Tôi có thể chạm tới cùng đại dương từ bờ này; các bạn nữa, có thể chạm tới từ bờ khác xa bờ của tôi hàng triệu dặm. Nhưng làm sao tôi có thể tin được rằng bạn đã đạt tới cùng biển cả như tôi đã đạt tới? Tôi đang chạm tới một bờ của nó mà tôi nghĩ là của tôi - một đại dương tách biệt - còn bạn đang chạm tới một bờ khác mà bạn nghĩ là của bạn - một đại dương tách biệt. Điều đó cũng giống như tôi coi Ấn Độ dương là của tôi, bạn coi Đại Tây dương là của bạn, và người thứ ba coi Thái Bình dương là của người đó.
Nhưng trong thực tế tất cả mọi đại dương đều được thống nhất và là một. Đó thực sự là một đại dương toàn cầu bao la. Nhưng khó mà biết được nó chừng nào chúng ta còn tiếp cận tới nó một cách manh mún; thế thì chúng ta sẽ không biết một đại dương bao la. Thay vì thế, chúng ta sẽ chia rẽ và phân ranh giới nó theo cái nhìn giới hạn của mình về nó. Không chỉ đại dương đâu, chúng ta sẽ phân chia cả bờ nữa.
Cho nên kinh nghiệm về linh hồn cũng tựa như việc chạm vào đại dương từ một góc đặc biệt của nó. Và điều này có thể tới bằng việc đánh thức chỉ một chút ít năng lượng bao la này. Do đó việc trở thành cần thiết cho người tìm kiếm đã đạt tới trên con đường này là phải được chuẩn bị để làm mất linh hồn nữa, để siêu việt lên trên nó và vượt ra ngoài. Bằng không thì cuộc hành trình này sẽ bị cản trở, bởi vì nó vẫn chưa đầy đủ. Nhận ra linh hồn không phải là cái toàn thể của nó; người đó sẽ phải làm mất cả linh hồn nữa, và lấy cú nhảy vào trong kunda. Nhưng thế thì điều đó trở thành dễ dàng; nó dễ dàng hơn.
Nhiều lần đường dài chứng tỏ là đường dễ dàng hơn, còn đường tắt hoá ra khó nhất. Và có lí do cho điều đó, và toàn lí do chính đáng cả. Đường dài bao giờ cũng là con đường dễ dàng hơn. Bây giờ, nếu tôi phải tới gần bản thân mình hơn thì tôi sẽ phải làm như vậy qua trung gian của người khác. Nếu tôi muốn thấy hình ảnh riêng của mình thì sẽ cần phải có sự giúp đỡ của tấm gương. Dường như đấy là con đường dài và ngoằn ngoèo không cần thiết, vì hình ảnh của tôi đi vào trong gương và thế rồi trở lại tôi dưới dạng phản xạ của nó, cho nên tôi có thể thấy khuôn mặt riêng của mình. "Sao đi đường vòng dài thế?" người ta có thể hỏi. Nhưng không có cách khác hơn thế này.
Mặc dầu khuôn mặt của tôi là gần tôi nhất, vậy mà với cùng lí do này việc nhìn trực tiếp vào nó là điều khó nhất.
Cho nên trong khi con đường của thức tỉnh một phần của năng lượng kundalini chắc chắn tạo ra con đường dài, điều đó gần như không tránh khỏi. Đó là cách toàn thể thế giới các giác quan bên trong mở ra và chúng ta đạt tới cái ta, hay linh hồn. Và từ đó bước nhảy lượng tử trở thành điều cần phải có. Thực sự chính con đường vòng dài này làm cho bước nhảy lượng tử được trơn tru và dễ dàng. Bởi vì chính sau đó mà phúc lạc của việc tự hiểu ra - điều tới qua việc biết về chính mình - bắt đầu mời chào và thôi thúc người ta phấn đấu cho cái cao nhất của phúc lạc.
Chắc chắn có phúc lạc trong việc biết và hiểu bản thân mình, nhưng phúc lạc của việc làm mất bản thân mình là cao nhất. Nó là phúc lạc tối cao. Sau khi bạn đã biết tới bản thân mình, chỉ còn lại một loại đau: đó là đau của cái ta, đau của việc biết rằng bạn hiện hữu. Với việc đạt tới cái ta thì tri thức về tất cả mọi nỗi đau sẽ biến mất, nhưng một nỗi đau sẽ vẫn còn theo đuổi bạn; và đó là nỗi đau của việc hiện hữu. Bây giờ bạn sẽ tự hỏi mình: "Sao lại thế này, sự hiện hữu của mình?" Bây giờ bạn biết rằng hiện hữu cũng là không cần thiết và đau đớn. Và thế rồi bạn sẽ lấy bước nhảy từ hiện hữu vào vô hiện hữu. Một ngày nào đó bạn sẽ nói: "Bởi vì tôi đã biết hiện hữu nên tôi muốn biết cả vô hiện hữu nữa. Bởi vì tôi đã biết ánh sáng, tôi muốn biết cả bóng tối nữa."
Dù ánh sáng có bao la thế nào, nó vẫn có giới hạn của nó; nhưng bóng tối là vô giới hạn. Hiện hữu chắc chắn có ý nghĩa lớn lao, vậy mà nó vẫn bị giới hạn; vô hiện hữu là vô hạn vô cùng.
Mọi người không hiểu Phật bởi chính lí do này. Khi ai đó hỏi ông ấy, "Tôi sẽ vẫn sống ở đó trong moksha hay tự do chứ?" ông ấy nói, "Không, ông sẽ không sống sót đâu; chính ông mới thực sự được tự do khỏi bản thân mình." Thế rồi người đó hỏi thêm, "Cứ giả dụ là trong moksha mọi thứ khác đều sẽ ra đi - ham muốn, đau khổ và tội lỗi sẽ ra đi; nhưng thế còn hiện hữu của tôi thì sao? Tôi sẽ không sống trong dạng nguyên thuỷ của mình chứ?" Với điều này Phật nói, "Làm sao ông có thể sống được? Sau khi các ham muốn, đau đớn và tội lỗi đã biến mất, một đau đớn sẽ vẫn còn lại - đau của sự hiện hữu. Thế thì chính sự hiện hữu của ông sẽ bắt đầu làm đau ông."
Điều thú vị là biết rằng sau khi dừng các ham muốn lại, chính sự hiện hữu của bạn bắt đầu làm phiền bạn, làm đau bạn. Chừng nào bạn còn ham muốn, hiện hữu dường như không gây ra cảm giác khó chịu nào, vì bạn giữ cho sự hiện hữu của mình bị bận rộn với cái gì đó này khác. Nếu các bạn theo đuổi tiền bạc, sự hiện hữu của bạn bị bận rộn với việc làm tiền. Và nếu bạn muốn uy tín và danh vọng, sự hiện hữu của bạn bị bận rộn với việc kiếm uy tín và danh vọng cho bạn. Nhưng bạn sẽ làm gì với sự hiện hữu của mình khi ham muốn của bạn về tiền đã từ bỏ bạn, khi bạn sẽ dừng ao ước địa vị và tiếng tăm, khi ngay cả ham muốn dục cũng mất đi, và bạn sẽ bị bỏ lại chẳng có cái gì để làm, khi bản thân việc làm sẽ dừng lại? Thế thì lúc đó sự hiện hữu của bạn sẽ bắt đầu chì chiết bạn trực tiếp. Thế thì sự hiện hữu sẽ quấy rối bạn và bạn sẽ đi tới cảm nhận rằng bạn không cần nó. Chính vì tình huống này mà Phật nói, "Không, sẽ không có gì còn lại cả. Sau việc tắt của ngọn đèn, ngọn lửa đi đâu?"
Mãi cho tới thời ông ấy chết mọi người vẫn liên tục hỏi Phật, "Điều gì xảy ra cho tathagata sau cái chết của ông ấy? Điều gì sẽ xảy ra sau khi thầy sẽ chết?" Và Phật bao giờ cũng nói, "Cái gì có đó để xảy ra sau khi ta không còn nữa? Chẳng cái gì còn lại cả; giống như ngọn đèn tàn lụi đi, mọi thứ sẽ tàn lụi đi. Các ông đừng bao giờ hỏi điều gì xảy ra cho ngọn lửa sau khi ngọn đèn tàn lụi đi. Khi ngọn lửa mất rồi, thì nó mất rồi."
Cho nên việc đạt tới linh hồn chỉ là một giai đoạn trong việc chuẩn bị để làm mất đi linh hồn. Chúng ta thu được nó chỉ để làm mất nó lúc chung cuộc. Nhưng điều đó còn dễ dàng hơn nữa. Bởi vì nếu bạn hỏi trực tiếp một người mà ham muốn của người này vẫn còn sống động trong việc tự chìm mình vào trong kunda, làm mất bản thân mình hoàn toàn, thì người đó không thể làm được như vậy; người đó sẽ nói điều đó là không thể được. Người đó sẽ nói rằng vì người đó có nhiều điều quan trọng cần làm, người đó không thể đảm đương được việc làm mất bản thân mình.
Tại sao chúng ta sợ làm mất bản thân mình thế? Chúng ta sợ bởi vì bao giờ cũng có nhiều điều cần được làm đến mức nếu chúng ta làm mất bản thân mình, mọi sự sẽ vẫn còn không được làm, không đầy đủ. Chẳng hạn, tôi phải xây cho mình ngôi nhà mà vẫn chưa xong, và tôi nghĩ tôi sẽ sẵn sàng làm mất bản thân mình sau khi hoàn thành cái nhà này. Và đến lúc ngôi nhà này được hoàn thành, một số dự án và công việc chưa hoàn thành khác sẽ bộc lộ chúng ra. Ham muốn làm thực sự là ham muốn hoàn thành cái gì đó, và đó là điều thúc giục chúng ta làm tiếp. Do đó chừng nào mà ham muốn của người ta còn có đó, thì không thể nào đánh mất linh hồn của người ta được, mặc dầu việc đánh mất linh hồn người ta là cách trực tiếp tạo ra con đường ngắn nhất. Làm sao người đó, người có ham muốn còn nguyên vẹn có thể đánh mất được linh hồn của mình? Tất nhiên, nếu ham muốn của người đó biến mất, người đó có thể sẵn sàng đánh mất linh hồn nữa; bởi vì bây giờ người đó sẽ không ích gì cho linh hồn.
Chẳng hạn, nếu bạn yêu cầu ai đó có khổ sở vẫn đang tiếp diễn bỏ phúc lạc của mình đi, người đó sẽ nói bạn đơn giản điên. Nhưng nếu khổ của người đó bỏ người đó và người đó được bỏ lại với phúc lạc một mình, thế thì người đó có thể chuẩn bị cho mình để từ bỏ cả phúc lạc nữa. Với ham muốn mất đi, người đó sẽ làm gì với phúc lạc? Và biến cố lớn lao xảy ra chỉ khi người ta sẵn sàng từ bỏ cả phúc lạc nữa. Bất kì ai cũng đều sẵn sàng từ bỏ nỗi buồn; nhưng một thời điểm sẽ tới trong các kiếp sống của chúng ta khi chúng ta được chẩn bị để sẵn lòng từ bỏ bản thân phúc lạc nữa. Và đó là điều đưa tới sự tan biến của người ta và thống nhất với sự hiện hữu tối cao.
Điều này có thể xảy ra trực tiếp nữa; người ta có thể đi vào kunda trong một thoáng lướt nhanh. Tuy nhiên rất khó để tự chuẩn bị cho điều đó ngay một lúc; việc chuẩn bị dần dần do đó là con đường dễ dàng hơn.
Khi việc ham muốn biến mất, khi tâm trí dừng lại, khi việc làm đi tới chấm dứt, khi tất cả mọi đồ dùng sân khấu của bạn mà bạn đã sống với chúng rơi rụng đi, thế thì đến cuối chỉ bạn còn lại không có cơ sở gì, không có hỗ trợ gì. Chỉ thế thì bạn mới tự nói với mình, "Bây giờ chẳng ích gì mà cứu lấy cái ta này; bây giờ mình có thể buông bỏ cả nó nữa." Thế thì bạn tự nhấn chìm mình vào trong kunda và hội nhập với nó. Việc hội nhập này với kunda được gọi là niết bàn, hay tự do.
Nếu người nào đó muốn nhảy trực tiếp vào trong kunda, thì kundalini không tới trên con đường của người đó. Đó là lí do tại sao một số con đường tâm linh không nói về kundalini; bởi vì điều đó là không cần thiết. Những người được dạy hội nhập trực tiếp vào kunda cho rằng không cần thiết phải nói tới kĩ thuật đánh thức kundalini. Nhưng kinh nghiệm của riêng tôi nói rằng những con đường trực tiếp không thể có tác dụng. Chúng có thể có tác dụng cho một hay hai cá nhân hiếm hoi, nhưng điều đó chẳng thành vấn đề gì mấy. Một bông hoa không tạo ra mùa xuân. Do đó, người ta phải trải qua con đường dài hơn.
Nhiều lần người ta phải gõ vào cửa của nhiều nhà khác để về tới nhà riêng của mình. Chỉ để về tới ngôi nhà riêng của mình, bạn có thể trước hết phải đi qua nhà của những người khác. Để biết khuôn mặt riêng của mình bạn có thể trước hết phải biết nhiều khuôn mặt khác. Và trước khi bạn đi tới yêu mến bản thân mình bạn phải yêu nhiều người khác. Yêu bản thân mình dường như đơn giản thế. Khó khăn gì có đó trong việc yêu bản thân mình? Ai ngăn cản bạn trong việc yêu bản thân mình? Quyền duy nhất là bạn phải về thẳng nhà. Nhưng thực tế điều đó không xảy ra theo cách đó. Trong thực tế, rất khó tìm ra ngôi nhà riêng của người ta trước khi người ta đã tới thăm nhiều nhà của những người khác. Và chừng nào người ta còn chưa cầu xin tình yêu của người khác và chưa trao tình yêu của riêng mình cho họ, người ta còn chưa đi tới biết rằng câu hỏi thực là việc yêu mến bản mình.
Về kundalini tôi nói rằng nó là sự chuẩn bị của thân thể; nó thực sự là việc chuẩn bị để đi vào vô thân thể, để đi vào tâm linh, linh hồn. Và bạn không thể đi vào linh hồn với khối lượng năng lượng hiện đang sẵn có cho bạn, bởi vì nó chỉ đủ đưa bạn qua những việc vặt hàng ngày của cuộc sống. Trong thực tế nó còn không đủ cho cả điều này nữa; nó đạm bạc tới mức đến cuối ngày bạn cảm thấy gần như kiệt sức. Năng lượng sẵn có không đủ ngay cả cho nhu cầu hàng ngày của chúng ta; việc cung cấp của nó nghèo nàn thế. Cho nên với năng lượng đạm bạc này bạn không thể đạt tới linh hồn được; vấn đề này đơn giản không nảy sinh.
Chính bởi lí do này mà khái niệm về sannyas mới đi vào hiện hữu. Nó đi vào hiện hữu với quan điểm để bảo tồn năng lượng của bạn bằng việc giải phóng chúng ta khỏi các hoạt động gia đình, bởi vì chúng ta có khối lượng năng lượng rất hạn chế trong tay. Năng lượng này phải được chuyển kênh sang hướng khác nào đó; nó phải được dùng cho ý định cao hơn nào đó. Cho nên những người tìm kiếm đã hô hào đóng các cửa hàng và trốn khỏi bãi chợ, trốn khỏi thế giới.
Với tôi, thái độ này là sai lầm. Năng lượng ít ỏi mà chúng ta chi dùng trong cuộc sống hàng ngày của mình không đáng tiết kiệm, bởi vì chúng ta sẽ phải chi dùng nhiều năng lượng trong việc tiết kiệm nó. Ngay cả để tiết kiệm năng lượng, người ta cũng phải chi dùng năng lượng. Nhiều lần, bạn không dùng nhiều năng lượng để diễn đạt giận dữ như bạn làm trong việc kìm nén nó. Đôi khi bạn phải dùng nhiều năng lượng để tránh đánh nhau hơn là bạn đã dùng trong chính việc đánh nhau. Cho nên tôi không coi nó là cách đúng; nó là cách thức của kẻ keo kiệt.
Đây là tính chất sannyas sao? Đó là cách thức của những người keo kiệt - tiết kiệm chút ít từ điều chúng ta có, mà bản thân nó quá nghèo nàn. Cách tiếp cận keo kiệt này chẳng ích lợi gì. Thay vì tiết kiệm chút ít năng lượng tại đây và chút ít tại kia, chúng ta nên đánh thức nhiều năng lượng đang ngủ - cái tràn đầy, cái vô hạn.
Tại sao tiết kiệm năng lượng? Đánh thức nó ngày một nhiều hơn đi. Nếu bạn phải dùng nhiều năng lượng hơn, rút nó từ bản thân kho dự trữ, cái vô giới hạn. Bạn có nhiều đến mức bạn không thể dùng được tất cả nó cho dù bạn muốn dùng; cho nên sao bận tâm tới việc tiết kiệm nó?
Bây giờ một người sợ rằng nếu người đó yêu vợ mình thì người đó không thể yêu được Thượng đế; bởi vì người đó nghĩ rằng chút ít năng lượng mà người đó có sẽ bị dùng hết trong việc yêu vợ mình. Cho nên người đó quyết định tiết kiệm nó bằng việc chạy xa vợ mình. Nhưng để tiết kiệm năng lượng người đó sẽ phải tranh đấu với bản thân mình, điều này làm tốn năng lượng của người đó. Bên cạnh đó, bạn có thể đạt tới Thượng đế bằng chút ít năng lượng mà bạn dùng để yêu vợ mình được không? Nó hiếm tới mức nó thực sự không thể đưa bạn ngay cả tới với vợ bạn, cứ gạt riêng mình Thượng đế ra. Nó không bao giờ có thể đưa bạn tới Thượng đế được.
Tôi muốn nói rằng điều đó là cực kì điên khùng về phần bạn - nghĩ tới việc xây cây cầu giữa bạn và cái vô hạn bằng khối lượng năng lượng nhỏ mọn chẳng đủ để bắc cầu cho bạn tới với người yêu của mình. Bạn cũng nhận biết về tính không thích hợp hoàn toàn của nó ngay cả trong các quan hệ nhỏ mọn của mình. Thời gian qua đi và nó làm phai dần bạn, ngay cả trong nỗ lực của bạn để đạt tới trái tim người yêu của mình.
Cho nên vấn đề không phải là tiết kiệm năng lượng; vấn đề là đánh thức năng lượng lớn đang nằm ngủ bên trong bạn. Và năng lượng này là vô hạn không tính nổi, nó đơn giản không bao giờ cạn kiệt. Và một khi nó bắt đầu thức tỉnh, nó càng thức tỉnh thì càng có khả năng thức tỉnh nó thêm nữa; nó cứ mở ra mãi. Một khi đã được bắt đầu, dòng suối năng lượng này bao la và vô tận đến mức bạn không bao giờ vét cạn được nó. Nói cách khác, không bao giờ có một khoảnh khắc trong đời bạn mà bạn có thể nói rằng bây giờ không còn gì nữa để được đánh thức.
Khả năng của việc đánh thức là vô hạn; bạn có thể rút ra khối lượng năng lượng bất kì từ kho dự trữ vô hạn này. Và bạn càng rút từ nó ra nhiều thì bạn càng trở nên mạnh mẽ hơn để đánh thức ngày một nhiều hơn năng lượng lớn lao này. Và khi bạn đã có dư thừa về năng lượng bên trong này trong quyền sử dụng của mình, chỉ thế thì bạn mới có thể dùng nó trong cuộc truy tìm cái không biết. Và cũng chỉ thế thì bạn mới có thể mạo hiểm bước đi trên con đường không biết và chưa hề được vẽ bản đồ. Các bạn có hiểu điều tôi đang nói không?
Có một loại giàu có khác trong thế giới bên ngoài nữa. Một người đã tích luỹ của cải dư thừa và bây giờ người đó nghĩ tới việc làm một chuyến đi lên mặt trăng. Đi lên mặt trăng là vô nghĩa; chẳng có gì để thu được cả. Nhưng chẳng có gì sai về điều đó; bởi vì chẳng có gì để mất cả. Người đó có nhiều đến mức người đó có thể dễ dàng đảm đương được việc đó.
Chừng nào bạn không có thừa thãi của cải - bạn chỉ có đủ cho việc sử dụng hàng ngày của mình hay thậm chí còn thiếu - bạn sẽ giữ cái nhìn nghiêm ngặt vào việc chi tiêu của mình; bạn sẽ nghĩ hai lần trước khi tiêu ngay cả một đồng xu. Và do đó bạn sẽ không bao giờ bước ra khỏi thế giới đã biết. Đi vào trong điều không biết bạn cần năng lượng thừa thãi, dư thừa năng lượng. Và kundalini sẽ rót đầy bạn bằng sự thừa thãi đó. Thế thì bạn có nhiều tới mức vấn đề nảy sinh là làm sao dùng được nó và dùng ở đâu.
Và nhớ lấy, khi bạn có năng lượng thừa thãi, bạn bỗng nhiên thấy rằng tất cả các kênh năng lượng cũ đều hoàn toàn bị tắc nghẹt; vì chúng bây giờ không có khả năng nhận nhiều thế, chúng không được dự định cho điều đó. Cũng giống như đại dương đã rơi vào trong một dòng sông nhỏ, quét sạch dòng sông này khỏi sự tồn tại ngay tức khắc. Dòng sông sẽ không bao giờ biết chỗ nó đã bị biến mất và biến mất như thế nào. Các kênh cũ của giận dữ của bạn, của dục của bạn và phần còn lại của nó bỗng nhiên sẽ bị tắc nghẹt và biến mất. Cái ngày trận lụt năng lượng sẽ dâng lên, nó sẽ nghiền nát và phá huỷ tất cả những cầu tàu và bến bờ cũ của nó. Bạn bỗng nhiên sẽ thấy rằng cái gì đó hoàn toàn mới và khác biệt đã đi vào sự hiện hữu. Và bạn sẽ tự hỏi điều gì đã xảy ra cho tất cả những việc tiết kiệm nhỏ bé của mình và sự keo kiệt của mình và việc sống bủn xỉn của mình. Những nỗ lực yếu ớt của bạn - như thực hành vô dục và kìm nén giận dữ và làm cái này cái nọ - sẽ biến mất vào trong thinh không, bởi vì các kênh và dòng sông cũ đã biến mất và toàn thể đại dương đã xuất hiện trong khung cảnh từ bây giờ ở đây.
Và khi bạn không còn cách nào khác để dùng năng lượng mênh mông này, bạn bỗng nhiên thấy rằng năng lượng này đã lập ra cuộc hành trình hoàn toàn khác. Bởi vì cuộc hành trình này phải tiếp diễn không ngừng mãi; nó không bao giờ có thể đi tới chỗ dừng được. Năng lượng sẽ cứ chuyển động; nó không thể dừng được. Cuộc hành hương này kéo dãi vĩnh viễn.
Vấn đề chỉ là đánh thức năng lượng này một lần thôi. Thế rồi những cách sống cũ của bạn trở thành vô nghĩa, và nhiều điều không biết và những cánh cửa không quen thuộc, vẫn đóng im ỉm qua nhiều thời đại, bắt đầu nhường đường cho năng lượng đang xô tới này. Và bắt đầu có việc bạn kinh nghiệm ngoại cảm. Và ngay khi những cánh cửa ngoại cảm mở ra bạn bắt đầu nhận biết về phần vô thân thể của thân thể, điều có thể được gọi là linh hồn hay tâm linh.
Cho nên kundalini là việc chuẩn bị của thân thể để đi vào vô thân thể, linh hồn. Chính theo nghĩa này mà tôi đã nói như vậy ở Nargol.

Người hỏi: khi nói về việc đi lên và đi xuống của năng lượng kundalini, thầy nói rằng việc đi lên của nó ở trước việc đi xuống. Liệu việc đi xuống của nó có hệt như việc đi xuống hay hội nhập vào kunda hay nó là cái gì đó khác? Xin thầy giải thích hiện tượng đi lên và đi xuống.

Thực tế, việc hội nhập vào kunda không phải là đi xuống không phải là đi lên; nó không thuộc vào loại nào cả. Vấn đề không phải là lên và xuống; đấy chỉ là vấn đề biến mất, vấn đề dừng hiện hữu. Khi một giọt nước rơi vào trong đại dương, nó không lên hay xuống, nó chỉ biến mất vào trong đại dương. Tất nhiên, khi giọt nước khô đi trong nhiệt mặt trời, nó chắc chắn bay lên trời dưới dạng hơi nước. Và khi nó tiếp xúc với khí lạnh, hơi nước biến thành mây; nó xuống đất dưới dạng mưa. Nhưng cuộc hành trình của nó tới biển thì không lên không xuống; nó đơn giản hội nhập, biến mất, chết đi trong đại dương.
Cho nên câu hỏi về lên và xuống nảy sinh theo một nghĩa rất khác biệt. Chính theo nghĩa này mà nhiều lần năng lượng chúng ta dâng lên phải được đưa trở về kunda, về bể. Chúng ta dâng năng lượng lên và đồng thời chúng ta trả nó về cội nguồn, lặp đi lặp lại. Và cần phải làm như vậy bởi nhiều nguyên nhân. Một nguyên nhân lớn là ở chỗ thường khối lượng năng lượng được đánh thức lại nhiều hơn điều chúng ta có thể chịu đựng được, và do vậy nó phải được gửi trả lại cội nguồn của nó; bằng không thì nó có thể tỏ ra nguy hiểm.
Năng lượng nào đó, nếu nó nhiều hơn điều chúng ta có thể nhận... Khả năng của chúng ta mang được một thứ nào đó là có giới hạn; ngay cả khả năng của chúng ta để mang hạnh phúc cũng bị giới hạn. Cả khả năng của chúng ta chịu đau đớn và quyền lực cũng bị giới hạn. Và nếu cú sốc của hạnh phúc hay đau đớn hay quyền lực xô tới mà nhiều hơn khả năng chúng ta có thể nhận, thế thì các cơ quan thần kinh của chúng ta có thể bị đánh thủng. Và điều này sẽ rất có hại. Đó là lí do tại sao nhiều lần năng lượng quá nhiều đã phải trả lại về cội nguồn của chúng. Nhưng điều đó tuỳ thuộc vào các kĩ thuật. Điều đó không nhất thiết trong trường hợp kĩ thuật mà tôi đang nói tới. Có những kĩ thuật đánh thức năng lượng ngay lập tức và bất thần; chúng được gọi là các kĩ thuật của đốn ngộ. Và bao giờ cũng có nguy hiểm cố hữu trong việc thực hành những kĩ thuật như vậy, bởi vì việc năng lượng xô tới có thể thành quá nhiều đến mức bạn không chịu nổi; bạn có thể không được chuẩn bị cho điều đó. Điện thế của nó có thể cao tới mức ngọn đèn của bạn có thể bị tắt ngóm, hay cầu chì của bạn có thể đứt, hay quạt của bạn có thể bị cháy, hay xe của bạn có thể bốc cháy. Nhưng kĩ thuật mà tôi cho các bạn ở đây không bị nguy hiểm này; ban đầu nó tạo ra tiềm năng trong bạn và thế rồi đánh thức năng lượng của bạn.
Cố gắng hiểu điều đó theo cách này. Nếu một chiếc đập lớn bục ra, nó sẽ gây ra rất nhiều hư hỏng. Nhưng nước của cũng cái đập ấy có thể được chuyển kênh theo cách có điều tiết và tuân theo nhu cầu của người dùng.
Một biến cố duy nhất xảy ra trong cuộc đời của Krishnamurti. Trong thời vị thành niên của mình, ông ấy đã bị một số người đặc biệt thuộc vào thông thiên học buộc phải trải qua toàn bộ kỉ luật kundalini. Một số thực nghiệm đã được thực hiện trên ông ấy, nhưng ông ấy bây giờ không còn kí ức rõ ràng về chúng. Ông ấy không nhận biết về điều ông ấy đã phải trải qua. Ông ấy chỉ trở nên nhận biết khi đại dương của chứng ngộ đã đi vào kênh chính là ông ấy. Đó là lí do tại sao ông ấy không có tri thức về pha chuẩn bị cho cuộc sống tâm linh của mình.
Và do vậy ông ấy không chấp nhận rằng bất kì việc chuẩn bị nào cũng là cần thiết cho chứng ngộ. Nhưng sự kiện là ở chỗ ông ấy đã được chuẩn bị cho điều này theo cách lớn lao, điều chưa bao giờ xảy ra trên trái đất này trước ông ấy. Thực tế cũng có một số người đã làm công việc chuẩn bị, nhưng họ đã tự mình làm nó. Tại đây lần đầu tiên những người khác đã làm việc này cho Krishnamurti. Họ thực sự đã làm việc trên ông ấy.

Người hỏi: Người khác có thể thực sự làm điều đó được không?

Một cách tuyệt đối, những người khác có thể làm được điều đó, bởi vì theo nghĩa sâu sắc nhất thì người khác không phải là người khác. Những người với chúng ta có vẻ như là người khác thì lại không phải vậy. Cho nên người khác đã làm những chuẩn bị này, và họ đã làm như vậy vì một nguyên nhân vĩ đại, để hiện thực hoá một biến cố lớn lao. Nhưng biến cố này đã không thể được hiện thực hoá; thực nghiệm này bị tịt.
Biến cố mà các nhà thông thiên học đã chuẩn bị là việc đến, việc đi vào của một linh hồn vĩ đại, vì điều đó mà Krishnamurti đã được chọn lựa làm phương tiện. Krishnamurti chỉ bị sử dụng như phương tiện, và ông ấy đã được chuẩn bị cho ý định này. Với ý định này các kênh tâm linh đã được đào bới ra và năng lượng đã được đánh thức qua trung gian của Krishnamurti. Nhưng điều này chỉ mới là phần sơ bộ của công việc. Chừng nào còn có liên quan tới Krishnamurti, ông ấy không phải là mục đích của dự án, ông ấy chỉ được dùng như phương tiện. Đó là vấn đề tạo ra chỗ trong ông ấy để một linh hồn khác nào đó tới và thường trú. Nhưng điều đó không thể thành công được; nó đã thất bại.
Dự án này thất bại bởi vì khi sự việc tới, Krishnamurti đã từ chối là phương tiện; ông ấy đã từ chối đóng vai trò trung gian cho ai đó khác. Người ta sợ rằng ông ấy sẽ làm như vậy. Nỗi sợ như vậy bao giờ cũng có đó, và đó là lí do tại sao những thực nghiệm như vậy chưa bao giờ được thực hiện trong quá khứ. Nỗi sợ này là thực; bởi vì khi một người đi tới trạng thái mà người đó có thể là chỗ chấm dứt cho bản thân mình, thì sao người đó phải đồng ý là phương tiện cho ai đó khác? Krishnamurti đã từ chối vào giờ cuối cùng.
Điều đó cũng giống như thế này: tôi đưa bạn chiếc chìa khoá ngôi nhà tôi để cho bạn có thể chuẩn bị nó cho một người khách được dự định tới đây vào ngày mai. Nhưng sau khi tôi trao tay cho bạn chiếc chìa khoá và rời khỏi nhà, bạn trở thành người chủ. Bạn rất có thể từ chối đón người khách vào ngôi nhà này với lời tự biện bạch rằng bạn là chủ của nó, chiếc chìa khoá đang ở cùng bạn. Chiếc chìa khoá này được ai đó khác làm ra, và ai đó khác đã xây dựng ngôi nhà này nữa. Và mặc dầu bạn có chìa khoá, bạn vẫn không có tri thức về cách làm khoá hay cách ngôi nhà đã được xây dựng. Nhưng vì bạn sở hữu chiếc khoá và bạn biết cách mở ngôi nhà, nên vấn đề chấm dứt ở đó.
Điều như vậy đã xảy ra. Một số người có thể được chuẩn bị, và một số người khác tới đã được chuẩn bị từ các kiếp trước của họ. Nhưng đây không phải là vấn đề bình thường. Thông thường,  mọi người đều  phải tự chuẩn bị cho chính mình. Và điều duy nhất đúng là việc chuẩn bị phải tới trước và việc xảy ra chứng ngộ tới sau đó. Nhiều nước hơn phải chảy vào trong kênh chỉ khi khả năng tiếp nhận của nó tăng lên.
Phải hết sức chăm chú rằng năng lượng này được đánh thức chỉ theo tỉ lệ với khả năng tiếp nhận của bạn, không bao giờ nhiều hơn thế. Có những kĩ thuật đưa tới việc xả ra năng lượng quá mức. Đó là cách nhiều người đã bị phát điên và tẩu hoả nhập ma. Và chính bởi vì những thực hành như vậy mà mọi người trở nên rất sợ tôn giáo.
Cho nên chúng ta có thể có hai cách đánh thức năng lượng và không có mấy khó khăn về nó.
Tôi định kể cho các bạn một kinh nghiệm gần đây của Mĩ - từ việc quản lí nguồn cấp điện của họ - làm sao nhiều lúc các kế hoạch của chúng ta cứ bị thất bại. Tình huống như vậy có thể nảy sinh ngay cả trong phạm vi nội bộ cuộc sống chúng ta. Ở Mĩ họ có 80 cơ quan được tổ chức ra để phân phối điện sao cho nếu điện dư thừa ở thị trấn đặc biệt nào đó - nếu vào đêm đặc biệt nào đó thị trấn này dùng ít điện hơn hạn ngạch đã được phân bổ - thì lượng điện thừa này được tự động truyền sang thị trấn khác nơi đang cần. Điều đó ngụ ý rằng ngay cả một lượng năng lượng điện nhỏ cũng không được phép còn đó không được dùng tới tại bất kì chỗ nào; nó ngay lập tức được truyền sang chỗ khác cần dùng nó.
Chẳng hạn, một nhà máy làm việc mãi tới tối hôm qua đã đóng cửa ngày hôm nay do chuyện bất ổn lao động, và nó sẽ không dùng năng lượng đã được cấp cho nó. Rồi có thị trấn khác nơi một nhà máy có thể đang nằm chơi nhàn rỗi vì thiếu năng lượng. Cho nên họ đã tổ chức nó theo cách điện bên trong vùng này thường được chuyển tiếp từ chỗ này sang chỗ khác, để cho không có dư thừa ở chỗ này và khan hiếm ở chỗ khác.
Nhưng việc đã xảy ra như vậy vài năm trước đây - và nó đã xảy ra vì hệ thống tự động truyền năng lượng này - rằng trong mười tới mười hai giờ nước Mĩ chìm ngập trong bóng tối, và một loại hỗn loạn chế ngự khắp nơi. Khi điều đó xảy ra, đã có hỏng nguồn điện ở thị trấn nào đó và kết quả là chân không đã được tạo ra ở đó. Bây giờ toàn thể năng lượng quá mức trong mạng của vùng đó tự động xô trở lại vùng đó - với lực mạnh tới mức tất cả mọi cầu chì trong thị trấn đó đều bị nổ tung và hậu quả là toàn thể hệ thống được liên nối lẫn nhau của vùng đó bị gián đoạn và mất tổ chức. Toàn thể tổ chức cung cấp điện sụp đổ, và bỗng nhiên trong hai mươi bốn giờ nước Mĩ trở về trạng thái đã tồn tại hai nghìn năm trước đây. Có việc tắt đèn khắp mọi nơi, và tất cả cuộc sống xã hội đi tới chỗ dừng lại.
Chỉ từ đó họ mới nhận ra lần đầu tiên rằng tất cả mọi nỗ lực của họ nhằm vào tính hiệu quả và tạo dòng chảy đều có thể bật lại vào họ và chứng tỏ là thảm hoạ. Việc này đáng không bao giờ xảy ra nếu từng thị trấn có hệ thống tách bạch riêng của mình về nguồn cấp điện. Việc này có thể không bao giờ xảy ra ở Ấn Độ, rằng điện của toàn quốc bị mất ngay một lúc. Nó chỉ có thể xảy ra ở Mĩ, nơi ngay cả nguồn cấp điện cũng được tổ chức một cách toàn thể và tập trung và nơi mà mạch điện chảy tràn đầy mọi lúc. Cho nên bao giờ cũng có nguy hiểm.
Có một hệ thống như mạch điện  bên  trong con người nữa. Và nếu dòng điện ở bên trong bạn chảy về bạn với số lượng lớn hơn mức bạn có thể tiếp nhận, sẽ có thể nguy hiểm. Và có những kĩ thuật mà với chúng bạn có thể làm tăng luồng điện bên trong của mình. Chẳng hạn, bạn đang ngồi với năm mươi người khác trong phòng này. Với sự giúp đỡ của kĩ thuật nào đó bạn có thể, nếu bạn muốn, làm cho năng lượng của tất cả năm mươi người này chảy về bạn - một người. Trong biến cố đó tất cả năm mươi người này, bị rút cạn năng lượng của họ, sẽ trở thành vô ý thức, trong khi bạn sẽ trở thành cây cột trụ năng lượng, bạn sẽ bùng nổ bởi năng lượng. Nhưng điều này có thể tỏ ra là nguy hiểm cho bạn nữa. Có thể là năng lượng được xả ra thành quá nhiều bạn không kham nổi. Và điều trái ngược lại cũng có thể xảy ra. Qua cùng con đường, dòng năng lượng của bạn có thể được hướng chảy sang người khác, rút dần toàn thể năng lượng của bạn. Tất cả những thực nghiệm như vậy đều đã được tiến hành trong quá khứ.
Cho nên có những phương pháp mà với chúng người ta có thể trả lại năng lượng dư thừa về cội nguồn trong trường hợp quá nhiều năng lượng chảy về các trung tâm cao hơn vào một lúc, trong trường hợp có thừa năng lượng. Nhưng điều này không nhất thiết có trong trường hợp các kĩ thuật tôi đang trao cho các bạn ở đây. Điều này hoàn toàn không cần thiết, bởi vì năng lượng sẽ được xả ra trong trường hợp này chỉ tỉ lệ với khả năng nhận nó của bạn. Chúng ta sẽ tạo ra không gian trước hết và thế rồi thả năng lượng lấp đầy không gian này. Cho nên các bạn sẽ không bao giờ cần trả lại bất kì năng lượng thặng dư nào. Tình huống như vậy sẽ không phát sinh ra. Tất nhiên, một ngày nào đó chính bản thân bạn sẽ trở về cội nguồn; nhưng đấy là vấn đề khác. Khi biết mọi điều bạn sẽ lấy cú nhảy và hội nhập với kunda. Nhưng điều đó là việc hoàn toàn khác.
Những từ này, lên và xuống, đã được dùng với nghĩa khác nữa. Nghĩa mà trong đó Shri Aurobindo dùng chúng rất khác.
Chúng ta có thể nghĩ tới năng lượng thiêng liêng theo hai cách: hoặc chúng ta nghĩ về nó như cái gì đó nằm trên chúng ta, trên đỉnh, trên trời, hay như cái gì đó nằm dưới, tại đáy, trong chiều sâu vực thẳm. Chúng ta nghĩ dưới dạng điểm cao nhất hay điểm thấp nhất. Nhưng chừng nào có liên quan tới cấp độ vũ trụ, thì thuật ngữ trên và dưới, đỉnh và đáy, là vô nghĩa; chúng không có liên quan về bất kì cái gì. Chúng chỉ là các khái niệm tư duy của chúng ta; chúng chỉ đại diện cho cách nghĩ của chúng ta. Chúng ta lấy trần căn phòng này là trên chúng ta, nhưng nó không phải vậy. Nếu chúng ta khoan đất ngay tại chỗ này bằng máy khoan và cứ khoan tới, một ngày nào đó nó sẽ kết thúc ở Mĩ. Và nếu ai đó quan sát từ đó thì người đó sẽ thấy cái trần này ở dưới chúng ta - dưới đầu chúng ta, không ở trên chúng. Chúng ta sẽ xuất hiện với người đó như một bầy người đang làm shirshasana - đứng trên đầu mình. Nhưng cái trần này vẫn còn như cũ. Điều đó tuỳ thuộc vào cách thức và từ đâu chúng ta thấy nó.
Cùng cách này các khái niệm của chúng ta về đông và tây đều là giả. Đông là gì và Tây là gì? Nếu bạn cứ đi mãi về phương đông thì bạn sẽ tới phương tây. Và nếu bạn cứ đi mãi theo phương tây bạn sẽ tới phương đông. Tại sao gọi nó là phương tây nếu bước đi theo hướng này bạn tới phương đông? Điều đó là vô nghĩa. Mọi khái niệm như vậy đều tương đối, và do vậy nó là không thực. Nó chỉ là một giả thiết tiện dụng, một khái niệm tưởng tượng; nó có ích và vậy mà giả. Bạn có thể nói phương đông ở đâu và nó bắt đầu từ đâu không? Nó bắt đầu ở Calcutta, Rangoon hay Tokyo? Phương tây bắt đầu và kết thúc ở đâu? Chúng thực sự bắt đầu bây giờ ở đây và kết thúc bây giờ ở đây. Chúng chỉ là các khái niệm tiện dụng, qua đó chúng ta phân chia trái đất ra theo thuận tiện của mình.
Theo cùng cách này trên và dưới, đỉnh và đáy, là các khái niệm tiện dụng. Trong khi đông và tây là các khái niệm chiều ngang, trên và dưới là các khái niệm chiều đứng. Dù sao chúng cũng chỉ là những khái niệm. Thực tế chẳng có gì như ở trên và ở dưới cả; bởi vì vũ trụ không có mái và không có sàn. Nó bao la và vô giới hạn thế. Cho nên mọi việc nói về ở trên và ở dưới, lên và xuống, đều vô nghĩa.
Nhưng khái niệm tiện dụng này về trên và dưới đã xâm lấn vào tư duy tôn giáo của chúng ta nữa. Cho nên một số người kinh nghiệm Thượng đế là cái gì đó tới từ trên cao; và thế rồi đó là trường hợp của năng lượng giáng xuống họ. Một số người kinh nghiệm Thượng đế như cái gì đó nảy sinh từ bên dưới, từ mái nhà; trong trường hợp đó năng lượng dâng lên với họ, nhưng thực tế phân chia này không có nghĩa. Nơi chúng ta đặt Thượng đế - trên hay dưới - là vấn đề khuynh hướng và thích hợp. Nhưng nếu chúng ta phải chọn lựa trong thu xếp dịch chuyển này, tôi ưa thích khái niệm về lên hơn khái niệm về xuống.
Khái niệm về đi lên của năng lượng sẽ ích lợi cho bạn hơn so với khái niệm đi xuống, và có lí do cho điều đó. Bởi vì nếu bạn lấy khái niệm đi lên, bạn sẽ phải nâng năng lượng lên, bạn sẽ phải làm việc vì nó. Và trong trường hợp bạn chọn khái niệm kia, việc đi xuống của năng lượng, bạn sẽ bị bỏ lại chẳng có gì ngoài lời cầu nguyện, bạn sẽ không làm gì ngoài cầu nguyện. Nếu đấy là vấn đề của năng lượng đi xuống, thì bạn chỉ có thể khoanh tay và cầu nguyện.
Do đó, hai loại tôn giáo đã tiến hoá trên toàn thế giới - một loại dựa trên thiền còn loại kia dựa trên lời cầu nguyện. Các tôn giáo giao phó cho lời cầu nguyện là những tôn giáo kinh nghiệm Thượng đế ở trên, trên bầu trời. Ngài ở trên bầu trời trong sáng còn chúng ta không thể làm được việc đem ngài xuống chỗ chúng ta. Nếu chúng ta muốn tìm thấy ngài, chúng ta sẽ phải dâng lên ngày một cao hơn. Và nếu chúng ta cố gắng làm như vậy, bản thân chúng ta có thể trở thành Thượng đế. Nhưng chúng ta không thể đi lên được; chúng phải vẫn ở nơi chúng ta đang ở. Và do vậy tất cả những gì chúng ta có thể làm được là gọi ngài trong lời cầu nguyện: "Hỡi Thượng đế, xin ngài giáng xuống chúng con! Xuống với chúng con đi."
Mặt khác, có những tôn giáo tin rằng chúng ta phải dâng cái gì đó lên từ bên trong chúng ta, rằng có cái gì đó đang ngủ ở gốc rễ chúng ta, và nó có thể được nâng lên chỉ nếu chúng ta làm điều gì đó theo hướng này. Những tôn giáo đó quay lưng lại với cầu nguyện và chọn lấy thiền. Chúng trở thành tôn giáo của thiền. Cho nên khái niệm về trên và dưới đã tạo ra tất cả khác biệt giữa cầu nguyện và thiền. Tôn giáo của cầu nguyện tin vào Thượng đế ở cao bên trên còn tôn giáo của thiền nghĩ rằng ngài cư trú ở gốc rễ, từ nơi đó ngài phải được nâng lên.
Và nhớ rằng dần dần, tôn giáo của lời cầu nguyện đã làm mất dần nền tảng và chết đi. Không có tương lai cho chúng; chúng không có tương lai về bất kì cái gì. Còn tôn giáo của thiền phát triển hàng ngày về tiềm năng, và họ có tương lai vô cùng trước họ.
Tôi muốn các bạn hiểu rằng con đường của cuộc hành trình của chúng ta đi lên từ phía dưới, từ đây.
Khái niệm này có một số nghĩa khác nữa. Tuy nhiên khái niệm này là tương đối. Do đó, không thành vấn đề gì với tôi nếu các bạn tin vào Thượng đế ở trên trời kia. Tôi sẽ không gặp khó khăn nào về điều đó. Nhưng tôi biết rằng các bạn chắc chắn sẽ đối diện với khó khan trong việc thực hiện điều đó. Tôi đã nói một chút trước đây rằng nếu chúng ta cứ đi về phương đông mãi thì chúng ta chung cuộc sẽ tới phương tây; nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta phải đi về phương đông nếu chúng ta phải đi về phương tây; chúng ta chỉ nên đi về phương tây. Mặc dầu khái niệm đông tây là vô nghĩa, vậy mà chúng ta bắt đầu đi về phương tây nếu chúng ta phải đi về phương tây. Điều này cũng đúng; rằng nếu chúng ta cứ đi về phương đông mãi chúng ta chung cuộc sẽ tới phương tây. Nhưng thế thì cuộc hành trình sẽ quá dài không cần thiết. Bạn có hiểu điều tôi muốn nói không?
Sẽ có nhiều khác biệt giữa người sùng kính và thiền nhân. Thượng đế của người sùng kính ở mãi trên trời, và do vậy người đó sẽ cầu nguyện và chờ đợi với tay khoanh lại. Còn Thượng đế của thiền nhân thì ẩn kín bên dưới trong gốc rễ của người đó và do vậy người đó sẽ chuẩn bị sẵn sàng hành động và nỗ lực để đánh thức ngài.
Có những cách diễn giải khác chúng ta cần nhớ trong đầu. Khi chúng ta tin Thượng đế ở dưới thấp, tại gốc rễ, sự hiện diện của ngài được cảm thấy ở mọi nơi, ngay cả trong điều chúng ta gọi là bản năng và xúc động cơ sở hơn của mình. Thế thì không có gì trong tâm trí chúng ta còn lại là cơ sở và thấp cả, bởi vì nếu bản thân Thượng đế sống ở vùng thấp, ngài hiện diện ngay cả trong điều chúng ta gọi là vùng thấp nhất của cuộc sống chúng ta. Và ngài có thể được đánh thức ngay cả ở đó. Nếu dục là vùng đó, thì Thượng đế sẽ ở đấy nữa, và ngài có thể được đánh thức và được đạt tới từ cả đầu đó nữa. Nói cách khác, không thể có chỗ nào mà không tìm được ngài. Ngài sẽ được tìm thấy ngay cả ở chỗ thấp nhất của địa ngục, nếu như có chỗ đó.
Nhưng nếu chúng ta tin rằng Thượng đế ở đâu đó trên tầng trời, thì việc kết án bắt đầu ngay lập tức; thế thì bất kì cái gì đứng bên dưới đều bị kết án, bởi vì Thượng đế không có ở đó. Và thế thì một cách vô ý thức cảm giác về tự ti nắm bắt lấy người tin tưởng. Và hậu quả của nó - hậu quả tâm lí của việc tự kết án và mặc cảm - đơn giản là thảm hoạ.
Và nếu bạn muốn đứng trên đôi chân vững chắc và mạnh mẽ, điều cần thiết là năng lượng phải tới từ bên dưới, vì điều đó sẽ thêm phần làm mạnh cho đôi chân bạn. Nếu năng lượng tới từ bên trên, nó sẽ chỉ chạm tới đầu bạn. Nhưng vấn đề là ở chỗ năng lượng, để có hiệu quả, phải đạt tới chính gốc rễ.
Và năng lượng tới từ bên trên bao giờ cũng dường như xa lạ và ngoại lai. Đó là lí do mà những người đạt tới qua lời cầu nguyện không bao giờ tin rằng Thượng đế và chúng ta là một. Người Hồi giáo bao giờ cũng kiên quyết phản đối bất kì ai nói rằng mình là Thượng đế. Họ nghĩ rằng Thượng đế và con người không thể là một và như nhau được, bởi vì Thượng đế ở tít trên trời còn con người lại ở đây trên đất này, ở dưới đáy. Do đó họ chặt đầu Mansoor và giết chết Sarmad. Với họ không có báng bổ nào lớn hơn điều này, rằng bất kì ai cũng nói rằng mình là Thượng đế. Bởi vì trong khi Thượng đế là cao nhất, con người cùng lắm cũng chỉ như loài sâu bọ bò trên đất. Làm sao con người thấp bé có thể đồng nhất mình với điều cao nhất được?
Lí do cho niềm tin này là ở chỗ chúng ta coi Thượng đế là ở tít cao còn bản thân chúng ta là những sinh linh thấp bé, chúng ta nhất định là hai thực thể tách biệt. Bởi chính lí do này mà người Sufis chưa bao giờ chấp nhận được đạo Hồi - tôn giáo của những người Hồi giáo - bởi vì người Sufis công bố rằng họ và Thượng đế là một.
Chúng ta có thể là một với Thượng đế chỉ nếu Thượng đế đi từ chỗ thấp, bởi vì chúng ta ở chỗ thấp. Chỉ nếu Thượng đế tới từ đất và không từ trời thì ngài mới là có thể và chúng ta hợp nhất vào trong một sự hiện hữu.
Ngay khi chúng ta đưa Thượng đế lên ngai vàng trên trời, cuộc sống trần tục của chúng ta bị kết án; nó trở thành tội lỗi. Và thế thì được sinh vào trong thế giới này được xem như kết quả của tội lỗi của chúng ta. Còn khi chúng ta đặt Thượng đế tại gốc rễ, cuộc sống trên đất này trở thành phúc lạc, phúc lành. Thế thì nó chấm dứt việc là kết quả của tội lỗi của chúng ta và biến thành món quà của Thượng đế và từ bi của ngài. Và thế rồi sự hiện diện của ánh sáng của ngài sẽ được cảm thấy ngay cả ở chỗ tối nhất của mọi vật. Và thế rồi, Thượng đế sẽ hiện diện trong bản thể bên trong nhất của ngay cả người tồi tệ nhất, ngay cả người độc ác nhất.
Do đó tôi ưa thích là các bạn tin Thượng đế là lực đi lên; mặc dầu thực tế không có khác biệt giữa hai khái niệm này về lực đi lên và đi xuống. Không có khác biệt về bất kì điều gì đối với người biết. Người đó sẽ nói rằng cả hai ý tưởng này đều vô dụng. Nhưng nếu chúng ta không biết và muốn đi trên cuộc hành trình tâm linh, tốt hơn cả là chúng ta chọn con đường làm cho cuộc hành trình được dễ dàng hơn. Cho nên tôi muốn người tìm kiếm hiểu rằng năng lượng sẽ nảy sinh từ đáy và cứ theo cuộc hành trình đi lên.
Do đó, những người chọn cuộc hành trình đi lên đều chấp nhận lửa như biểu tượng của Thượng đế, bởi vì lửa bao giờ cũng bốc lên. Lửa trong ngọn đèn, ngọn lửa của nó, thường xuyên đi lên, bốc lên. Đó là lí do tại sao ở chỗ thầm kín sâu nhất của tâm trí mình chúng ta đã chấp nhận lửa như biểu tượng của Thượng đế - bởi một lẽ đơn giản là bất luận điều bạn làm, lửa bao giờ cũng lên thẳng, và khi nó lên thẳng chẳng mấy chốc nó biến mất vào trong hư không. Ngọn lửa của đám lửa thấy được trong một chốc và thế rồi tự nó mất đi trong thinh không. Tương tự người tìm kiếm sẽ dâng lên, sẽ thấy được trong một chốc và thế rồi người đó sẽ mất đi bản thân mình trong cái không thấy được.
Do đó tôi nhấn mạnh vào việc đi lên của năng lượng và không nhấn mạnh vào việc đi xuống của nó.

Người hỏi: Thầy nói tại trại Nargol rằng chúng ta phải làm kiệt quệ thân thể qua việc thở mãnh liệt và sâu và thường xuyên hỏi câu hỏi "Tôi là ai?" để cho chúng ta đi vào thiền sâu. Nhưng làm sao làm kiệt quệ và nảy sinh việc thiếu năng lượng dẫn tới thiền thực sự cần năng lượng dư thừa?

"Làm kiệt quệ" không có nghĩa là sẽ thiếu năng lượng nào. Khi tôi nói các bạn phải làm cho bản thân mình kiệt quệ, điều tôi ngụ ý bởi từ "bản thân mình" là gì? Tại đây "bản thân mình" nghĩa là các giác quan của bạn mà qua đó năng lượng của bạn chảy vào quá trình đều đặn mọi ngày. Với "bản thân mình" tôi ngụ ý thân thể bạn; tôi ngụ ý bạn như bạn ngay bây giờ. Tôi không nói về bạn thực sự là gì; tại khoảnh khắc này tôi quan tâm tới bạn là gì.
Cho nên khi các bạn tự làm kiệt quệ mình, hai điều xảy ra cùng nhau. Khi các bạn làm kiệt quệ mình, tất cả các thực hành giác quan của bạn làm kiệt quệ thân-tâm bạn, các cơ quan cảm giác của bạn, mặt khác nó cứ nện búa vào kundalini của bạn. Cho nên từ một đầu các bạn bị kiệt quệ và từ đầu bên kia năng lượng ngủ của các bạn bắt đầu thức dậy.
Cả hai quá trình này là đồng thời. Một mặt các bạn bị mệt đi và mặt khác năng lượng của bạn được đánh thức dậy. Đồng thời, các bạn không ở vào vị trí dùng năng lượng của mình thêm nữa. Mắt bạn mệt tới mức chúng không thể nhìn được; tâm trí các bạn mệt tới mức nó không thể nghĩ được, cho dù nó muốn nghĩ. Chân bạn từ chối chuyển động, chúng hoàn toàn suy kiệt.
Trong tình huống này, nếu các bạn muốn di chuyển, các bạn sẽ phải di chuyển không có chân, còn nếu các bạn muốn nhìn, các bạn sẽ phải nhìn không có mắt, bởi vì chúng đã kiệt quệ rồi. Cho nên khi các cơ quan của bạn bị làm việc quá mức, nó từ chối làm việc. Nhưng đồng thời năng lượng nào đó đã được đánh thức và nó muốn làm điều gì đó một cách cấp thiết. Bây giờ năng lượng này lập tức sẽ gõ vào những cánh cửa không bị mệt của bạn, và sẵn sàng nhận lấy nó và làm việc với nó. Những lối mở này bao giờ cũng sẵn sàng nhưng đã bị phủ nhận mọi cơ hội để làm việc. Bạn mạnh đến mức bạn có thể dùng tất cả năng lượng của mình. Bây giờ bạn mệt mỏi, và năng lượng mới và tươi mát có đấy cho hành động. Nhưng các cơ quan cũ của bạn như mắt và tai sẽ từ chối nhận nó. Cho nên khi tai và mắt của bạn từ chối, năng lượng mới đó sẽ làm gì?
Trong tình huống này các bạn sẽ bắt đầu nhìn từ chiều nào đó rất khác, đó sẽ là một phần mới của bản thể bạn. Trung tâm nhìn tâm linh của bạn sẽ bắt đầu làm việc, và bạn sẽ thấy những điều mà bạn chưa bao giờ thấy trước đây. Và các bạn sẽ thấy từ một không gian mà các bạn chưa bao giờ quen thuộc trong quá khứ. Không gian đó chưa bao giờ được cho cơ hội để vận hành; bây giờ có cơ hội cho nó, lần đầu tiên.
Chính bởi lí do này mà tôi đã nhấn mạnh vào việc làm cho bạn kiệt sức. Một mặt, thân thể bạn phải bị làm cho thật mệt, tâm trí bạn phải bị làm cho thật mệt, tất cả mọi điều bạn có là bị mệt lử, để cho điều bạn thực sự là và điều bạn không nhận biết đó có thể trở nên tích cực. Khi năng lượng tươi mát được khuấy động lên, nó đòi hỏi làm việc, và bản thể bạn sẽ phải cung cấp nó cho công việc. Thực tế năng lượng này sẽ tự nó tìm ra công việc. Cho nên trong biến cố về tai bạn bị kiệt quệ, năng lượng được đánh thức mới sẽ nghe thấy cái được gọi là naad, hay âm thanh bên trong. Trong biến cố mắt bạn bị mệt mỏi, năng lượng mới sẽ thấy ánh sáng, ánh sáng bên trong. Để nghe âm thanh bên trong và thấy ánh sáng bên trong, tai và mắt vật lí của bạn không được cần tới. Nó sẽ ngửi thấy mùi hương ở bên ngoài tầm với của mũi thường của bạn. Vậy, các giác quan rất tinh tế, điều bạn gọi là siêu giác quan, sẽ trở thành sống động và hoạt động.
Mỗi một trong các giác quan của chúng ta đều được nối với một siêu giác quan tương ứng. Có tai nghe ra bên ngoài và có tai khác nghe bên trong bạn. Nhưng tai bên trong chẳng bao giờ được cho cơ hội nào để vận hành cả. Bởi vì tai bên ngoài của bạn bị làm việc quá sức và nó từ chối làm việc thêm nữa, mà năng lượng mới tụ tập gần tai đang trơ ì của bạn, nó sẽ phải làm gì? Nó sẽ kích hoạt tai kia của bạn, tai bên trong, chưa bao giờ được dùng trong quá khứ. Cho nên bạn sẽ nghe thấy và nhìn thấy những điều mà nếu bạn nói cho bạn bè mình về chúng thì họ sẽ nói, "Anh mất trí rồi. Điều đó là không thể được. Anh đang bị ảo tưởng; anh đang mơ đấy."
Nhưng bạn sẽ nghe thấy âm thanh đó còn rõ hơn bạn nghe nhạc của veena của mình, đàn luýt của mình. Đàn luýt bên trong sẽ được nghe thấy rõ ràng và to tới mức bạn không bao giờ có thể nghĩ rằng nó có thể không thực, giả tạo. Bạn sẽ nói rằng nếu đây mà là giả, thì đàn veena bên ngoài hoàn toàn là giả.
Để cho những cánh cửa mới tới sự tồn tại của bạn mở ra, điều cần thiết là ban đầu phải làm mệt mỏi các giác quan của bạn. Một khi những cánh cửa đó được mở ra, sẽ không có vấn đề gì. Thế thì bạn có thể so sánh, và nói rằng nếu bạn phải nhìn, thì nhìn vào bên trong còn tốt hơn nhiều, nhiều phúc lạc thế. Cái bên ngoài là vô nghĩa nếu so với cái bên trong. Nhưng ngay bây giờ bạn không có cách nào để so sánh cả, bạn không có chọn lựa nào về bất kì cái gì. Nếu bạn muốn nhìn, chỉ có mỗi cảnh bên ngoài để nhìn. Một khi mắt bên trong của bạn bắt đầu thấy, bạn có chọn lựa rõ ràng; bạn có thể chọn giữa cái bên trong và cái bên ngoài. Và thế thì bạn bao giờ cũng sẽ chọn cái bên trong bất kì khi nào bạn cảm thấy thích nhìn. Và bạn sẽ không bỏ lỡ nó; cái bên ngoài sẽ trở thành vô nghĩa.
Có một câu chuyện trong cuộc sống của Rabiya.
Một buổi chiều tà mặt trời đang lặn và bà ấy đang ngồi bên trong lều của mình. Một thầy tu khổ hạnh fakir có tên là Hassan tới thăm bà ấy. Đó là lúc mặt trời lặn và buổi chiều tà đơn giản đang làm cho người ta say mê. Thế là Hassan gọi bà ấy, "Rabiya ơi, bà đang làm gì đó bên trong lều? Chiều tà đẹp thế, và mặt trời lặn huy hoàng tôi chưa bao giờ thấy trước đây. Buổi chiều rực rỡ như thế có thể không thấy được lần nữa đâu. Bà ra khỏi lều và ngắm nó đi."
Trả lời lại, Rabiya nói, "Ôi ông khờ ơi, ông còn tiếp tục ngắm mặt trời bên ngoài được bao lâu nữa? Tôi bảo ông quay vào trong đi, bởi vì ở đây tôi đang ngắm người tạo ra mặt trời. Và tôi đang chứng kiến những mặt trời như vậy ở đây vẫn còn chưa được tạo ra và sẽ được tạo ra trong tương lai chưa thấy được. Cho nên tốt hơn cả là ông đi vào đi."
Nhưng Hassan không thể đoán được điều Rabiya muốn bảo ông ấy. Người đàn bà này thực sự hiếm hoi. Rabiya là một trong số rất ít phụ nữ có ý nghĩa trong toàn bộ lịch sử loài người. Nhưng Hassan không hiểu được bà ấy; ông ấy cứ khẩn khoản mãi rằng Rabiya nên bước ra khỏi lều và ngắm nhìn mặt trời lặn mà bà ấy đang bỏ lỡ. Còn Rabiya cảnh báo ông ấy mãi đừng bị lạc trong quyến rũ của mặt trời bên ngoài và do vậy bỏ lỡ cái đẹp thực sự của cái bên trong.
Đối thoại này giữa Rabiya và Hassan xảy ra ở hai bình diện khác nhau đồng thời. Hai loại giác quan khác nhau cùng tham gia vào trong đó. Nếu bạn không nhận biết về các giác quan bên trong, thế thì thế giới bên ngoài là mọi thứ cho bạn.
Và đó cũng chính là ý nghĩa mà tôi nói rằng sẽ là tốt nếu các giác quan bên ngoài bị kiệt quệ.
Người hỏi: vậy trong việc thiền này, việc làm kiệt quệ không có nghĩa là thiếu năng lượng.
Không một chút nào. Nó có nghĩa là đánh thức năng lượng - năng lượng đang ngủ bên trong từng người các bạn. Và toàn bộ công việc được ngụ ý để đánh thức nó. Đúng là các giác quan bị mệt mỏi; nhưng các giác quan nào không chứa năng lượng, chúng đơn thuần là những cánh cửa để năng lượng đi qua đó. Và bạn không là cánh cửa; bạn là cái gì đó khác. Bạn đơn thuần đi qua những cánh cửa này. Và chính những cánh cửa này bị mệt mỏi và yêu cầu bạn không đi qua chúng nữa, bởi vì chúng bị làm việc quá sức và cạn kiệt rồi. Mắt bạn từ chối bị sử dụng. Và các giác quan khác cũng nói như vậy.
Cho nên khởi đầu quá trình làm mệt mỏi các giác quan này là rất có ích.

Người hỏi: nếu đó là trường hợp của việc đánh thức năng lượng, thế thì việc thiền này nên đem tới tươi mát thay vì mệt mỏi. Nhưng thông thường nó đem chỉ mỗi mệt mỏi. Tại sao vậy?

Nó sẽ chỉ như vậy vào lúc bắt đầu. Nhưng dần dần bạn sẽ cảm thấy tươi mát và sảng khoái. Tươi mát và sảng khoái này tới mức bạn chẳng bao giờ biết trước đây. Nhưng lúc ban đầu, để cho chắc, bạn sẽ cảm thấy mệt. Nó là vậy bởi vì bạn đã đồng nhất mình với những giác quan này. Bạn nghĩ chúng là chính bản thân mình. Cho nên khi các giác quan này mệt, bạn nói rằng bạn mệt. Sự đồng nhất này với các giác quan phải ra đi.
Chẳng hạn, bạn đang cưỡi ngựa và con ngựa bị mệt. Bây giờ nếu bạn bị đồng nhất với ngựa thì bạn sẽ nói rằng bạn mệt, bạn mệt chết đi. Chúng ta thấy mệt với tất cả những gì chúng ta đồng nhất với. Nếu bạn đồng nhất bản thân mình với ngựa, bạn sẽ mệt khi ngựa mệt. Cái ngày bạn biết rằng bạn không là ngựa, tươi mát sẽ tới thăm bạn theo cách rất khác. Và thế thì bạn sẽ biết rằng đó chính là các giác quan mệt chứ không phải là bạn.
Ngược lại, khi các giác quan mệt và từ chối làm việc, nhiều năng lượng, cái đã từng bị phung phí một cách vô ích trước đây, nay được tiết kiệm và gìn giữ trong kho năng lượng bên trong bạn. Thế thì bạn sẽ biết cái được gọi là bảo tồn năng lượng, và nó sẽ ngày càng biến thành kho tàng vô giá của bạn. Và vì năng lượng này không đi ra, nên nó thấm vào mọi thớ thịt, mọi lỗ chân lông của con người bạn. Năng lượng này là bạn, và khi bạn hiểu nó thì bạn sẽ biết khác biệt.
Cho nên dần dần, sau thiền, bạn sẽ kinh nghiệm tươi mát vô cùng. Nói rằng bạn sẽ cảm thấy tươi mát cũng là sai, thay vì thế bạn sẽ trở thành bản thân sự tươi mát. Không phải là bạn sẽ cảm thấy tươi mát, bạn sẽ là tươi mát này. Nhưng điều này sẽ xảy ra chỉ khi đồng nhất của bạn thay đổi. Ngay bây giờ bạn đang cưỡi ngựa, và cả cuộc đời mình bạn đã đồng nhất mình với ngựa. Sẽ phải mất thời gian để biết rằng bạn không là ngựa mà là người cưỡi. Và sẽ dễ hiểu hơn cho bạn nếu ngựa kiệt sức tới mức phải bỏ nó đi. Thế thì bạn sẽ phải bước bộ, và bước bộ trên đôi chân riêng của bạn. Và khi bạn bước đi, bạn sẽ biết rằng bạn là tách rời với ngựa.


Nhưng cưỡi trên lưng ngựa một thời gian lâu bạn đã quên mất rằng bạn có thể bước bộ. Cho nên cũng tốt là con ngựa bị kiệt sức.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

SACH OSHO

https://ilook.asia/sach/toan-tap-tac-pham-bac-thay-osho-60.html