Chương 5. Osho hướng dẫn thiền động (2)
Bây giờ chúng ta ngồi dậy để thiền. Sẽ có một chút thay đổi so với lịch cho việc thiền từ mai.
Từ ngày mai, các sáng sẽ được dành riêng cho thiền và các tối dành riêng cho bài nói. Nhưng hôm nay chúng ta sẽ theo lịch của ngày này.
Để ghế ngồi của các bạn ra ngoài, giữ khoảng cách người nọ với người kia. Nhưng đừng ra xa quá, bởi vì sáng nay tôi để ý rằng các bạn ra xa bị mất cái lợi của bầu không khí tâm lí đang được tạo ra ở đây. Cho nên đừng ra xa, vậy mà vẫn giữ khoảng cách nào đó từ người nọ sang người kia, không bỏ mất nhiều không gian trống vô dụng. Đừng đi ra ngoài trường năng lượng đang được xây dựng ở đây, bằng không các bạn sẽ không có khả năng được lợi từ nó. Cho nên những người đã ra xa nên lại gần hơn, nhưng đừng quá gần.
Các bạn muốn nằm ra nên tìm chỗ của mình và nằm ra. Còn những người muốn thiền ngồi có thể làm như vậy, nhưng đừng bỏ khoảng trống lớn giữa các bạn. Và đừng nói chuyện, để cho không có việc tán gẫu chút nào. Điều có thể được làm mà không nói thì nên được làm không có nói.
(Vài mảnh đá từ góc nào đó rơi ra trên sàn họp, nhưng Osho vẫn tiếp tục nói theo giọng bình thản và thanh bình của mình.)... Chuyện gì vậy? Đá rơi à? Không thành vấn đề gì. Giữ đá với sự chăm sóc của bạn. Ai đó phải đã ném chúng ra từ tình yêu... Những người đang nói ở phía sau nên thôi ngay đi. Nếu họ muốn ở lại đây họ nên im lặng ngồi xuống hay nếu không thì họ có thể rời khỏi chỗ này. Không ai nên ở đây như khán giả, và cho dù người ta muốn ở lại như khán giả, người đó nên giữ im lặng hoàn toàn. Không ai sẽ quấy rối người khác theo bất kì cách nào.
Dường như ai đó đã ném đá và người đó đã làm điều đó vài lần rồi. Nếu người đó nghĩ điều đó là cần thiết cho mình làm như vậy, người đó nên ném đá vào tôi chứ đừng vào ai khác.
Giai đoạn thứ nhất
Thế là được. Xin ngồi xuống. Và ngồi xuống bất kì chỗ nào bạn đang ở. Và bây giờ nhắm mắt lại. Trong trọn một giờ bạn phải đem toàn bộ năng lượng của mình ra làm việc. Nhắm mắt lại và bắt đầu thở sâu. Thấy đại dương đang thở mạnh mẽ biết bao - và những cây thông đang thở sôi nổi biết bao. Thở với tự do. Đổ toàn thể năng lượng của bạn vào trong nó. Hít hơi thở vào sâu rồi tống nó ra mạnh mẽ và đầy đủ. Làm chỉ một điều này trong mười phút và đó là thở và thở sâu và mạnh.
Hít vào và thở ra sâu, nhanh và mạnh. Và vẫn còn để ý bên trong, là nhân chứng bên trong chính mình. Cứ thở và đồng thời liên tục quan sát nó. Quan sát cách hơi thở này đi vào và hơi thở khác đi ra. Trong mười phút đi sâu vào trong quá trình hoạt động thở của bạn. Là một với nó... Bắt đầu.
Hít hơi thở vào sâu và rồi tống chúng ta mạnh mẽ và đầy đủ. Thở sâu, thở sâu, thở sâu. Đem tất cả năng lượng của bạn vào trong nó. Cám ơn rằng tối nay có sẵn cho bạn, rằng cơ hội này đang có sẵn cho bạn. Nó có thể hay không thể có sẵn nữa... Sử dụng bản thân bạn toàn bộ đi. Bất kì cái gì không được sử dụng toàn bộ sẽ không có tác dụng. Nếu điều lớn lao xảy phải ra, nó chỉ có thể xảy ra qua việc áp dụng toàn bộ năng lượng. Cho nên đừng kìm lại bản thân mình. Đừng tiết kiệm bản thân mình. Nếu bạn giữ lại cho dù một li thôi thì sự việc sẽ không xảy ra... Thở sâu. Trở thành giống như cái máy thở. Thân thể đang thở như cái máy. Bây giờ bạn giống như cái máy thở... Và đừng ngần ngại. Đừng vẩn vơ. Và đừng nghĩ tới người khác. Chăm nom bản thân mình. Từng người sẽ chăm nom chính mình.
Trong mười phút này thở vào và thở ra sâu nhất có thể được. Trong mười phút này đừng làm gì khác ngoài việc thở. Trở thành quá trình hít vào và thở ra không dừng và không gì hơn. Hít hơi thở vào và tống nó ra. Và giữ quan sát từ bên trong, chỉ chứng kiến. Là nhân chứng cho việc thở vào và thở ra. Hơi thở này vào và hơi thở khác ra. Hơi thở này tới và hơi thở khác đi. Sử dụng, sử dụng bản thân bạn một cách toàn bộ.
Tôi sẽ im lặng trong mười phút ngay đây. Nhưng các bạn vẫn tiếp tục sử dụng bản thân mình một cách toàn bộ. Không phải là các bạn lấy vài hơi thở sâu khi tôi bảo các bạn làm vậy và thế rồi chểnh mảng nỗ lực của mình. Liên tục trong mười phút này bạn phải đem đem toàn bộ năng lượng của mình vào nó, thở sâu. Hít vào sâu và thở ra sâu - sâu và mạnh mẽ đến mức toàn thể thân thể bạn rung lên, mọi thớ thịt của nó đều rung lên. Thân thể bạn sẽ được nạp điện. Năng lượng nào đó bên trong bạn sẽ bắt đầu dâng lên và thấm tràn vào mọi thớ thịt, mọi lỗ chân lông của thân thể bạn... Dùng toàn bộ sức mạnh của bạn.
Lấy hơi thở vào sâu và tống nó ra mạnh mẽ và đầy đủ. Thở sâu, rất sâu. Thở sâu. Thở sâu. Thở sâu. Thở sâu. Hít một hơi thở vào sâu và dồn hơi thở ra sâu một cách đầy đủ và mạnh mẽ. Trong mười phút này để thân thể bạn là một công cụ thở và không là gì khác. Là một với tiếng gầm của đại dương. Là một với sóng của gió. Chúng tất cả đều đang thở... Bạn phải thở với chúng và không làm gì khác. Chỉ thở và thở sâu và mạnh mẽ. Thở vào và thở ra, và vẫn còn là nhân chứng bên trong. Đem toàn bộ năng lượng của bạn vào việc thở. Và thở có chú ý đầy đủ, quan sát bên trong cách hơi thở sâu đi vào và hơi thở khác đi ra. Hơi thở sâu này đi vào và hơi thở sâu khác đi ra. Đừng kìm bản thân mình lại cho dù là chút ít; đừng tiết kiệm bất kì nỗ lực nào. Sử dụng bản thân bạn tới mức đầy đủ nhất. Thở sâu, thở sâu hơn, thở sâu hơn nữa. Không có gì ngoài thở sâu được tồn tại vào khoảnh khắc này. Thở sâu, thở sâu hơn, thở sâu hơn nữa. Thở sâu. Thở sâu. Thở sâu. Thở sâu.
Thấy rằng bạn không phải tiếc là bạn đã không làm hết sức mình, rằng bạn đã không làm ít hơn điều cần làm cho việc xảy ra lớn lao. Thấy rằng bạn không bỏ lỡ nó. Cho nên đem tất cả năng lượng của bạn vào việc thở, thở sâu và mạnh.
Trước khi chuyển sang giai đoạn thứ hai bạn phải làm cho mình mệt mỏi hoàn toàn... cho nên dùng bản thân mình một cách toàn bộ đi. Thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu. Chỉ việc thở còn lại; các bạn đã trở thành bản thân việc thở. Thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu. Và quan sát bên trong cách bạn thở vào và thở ra... Thấy rằng bạn là nhân chứng - chỉ việc chứng kiến. Bạn sẽ thấy hơi thở của mình thực sự đi vào và đi ra. Quan sát bên trong, quan sát và quan sát. Và thở mãnh liệt; làm nó mãnh liệt hơn và tĩnh lặng hơn.
Để chuyển sang giai đoạn thứ hai, làm mãnh liệt việc thở lên. Thở mãnh liệt. Khi bạn ở đỉnh cao hoàn toàn của sự mãnh liệt thì một mình tôi sẽ đưa các bạn sang giai đoạn thứ hai. Sử dụng bản thân bạn đầy đủ. Sử dụng bản thân bạn toàn bộ và theo mọi cách có thể được. Thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu. Chỉ việc thở còn lại và không gì khác. Đem tất cả sức mạnh của bạn vào việc thở. Thở sâu hơn và sâu hơn nữa. Thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, vẫn thở sâu hơn nữa. Đừng kìm lại bản thân mình. Thở sâu, thở sâu hơn, thở sâu hơn nữa.
Để thân thể rung lên nếu nó muốn rung. Để thân thể run rẩy nếu nó thích run rẩy. Để thân thể xoay tròn nếu nó muốn xoay tròn. Và vẫn giữ việc thở sâu và sâu hơn và sâu hơn nữa. Thở sâu nhất có thể được... đừng lẩn tránh... Đừng vẩn vơ. Thở sâu, thở sâu... thở sâu, thở sâu. Chẳng mấy chốc chúng ta sẽ chuyển sang giai đoạn hai. Trong một phút cuối cùng này thở sâu, sâu hơn và sâu hơn nữa. Thở sâu, thở sâu... Bây giờ là phút cuối cùng, cho nên dùng toàn bộ bản thân bạn. Thở sâu, thở sâu... Đem hơi thở tới cực đỉnh của nó. Việc chuyển từ giai đoạn một sang giai đoạn khác xảy ra chỉ tại cực đỉnh... Thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu. Kéo tất cả năng lượng của bạn vào việc thở... Chỉ việc thở còn lại, chỉ việc thở còn lại.
Giai đoạn thứ hai
Bây giờ chúng ta phải đi vào giai đoạn thứ hai. Tiếp tục thở sâu, và buông bỏ thân thể. Để thân thể làm cái nó muốn làm. Buông bỏ nó. Để nó lấy bất kì asanas hay tư thế nào nó muốn; để nó tạo thành bất kì mudras hay ấn điệu bộ nào nó muốn. Để nó tự do di chuyển và rung và xoay tròn như nó muốn. Nếu bạn muốn khóc, để cho nó khóc. Buông bỏ thân thể hoàn toàn. Tiếp tục thở sâu và buông bỏ thân thể. Để thân thể ngã ra nếu nó muốn ngã. Và để nó vươn dậy lại nếu nó muốn vươn dậy. Và nếu nó muốn nhảy múa, cho phép nó toàn bộ. Buông bỏ thân thể tuyệt đối. Để nó làm bất kì cái gì nó muốn làm. Để nó tự do. Đừng cản trở nó chút nào. Hợp tác với thân thể. Nếu nó quay, để nó quay. Nếu nó xoay tròn, để nó xoay. Nếu nó ngã ra, để nó ngã. Nếu nó khóc, để nó khóc. Và nếu nó cười, để nó cười. Buông bỏ. Bất kì điều gì xảy ra cho nó, cho phép điều đó xảy ra. Tiếp tục thở sâu và buông bỏ thân thể.
Trong mười phút này buông bỏ thân thể hoàn toàn. Thở sâu, và buông bỏ thân thể. Để nó khóc nếu nó muốn khóc. Để nó la nếu nó muốn la. Và để nó thét nếu nó muốn thét. Cho phép nó theo mọi cách. Đừng kiềm chế nó, đừng kìm hãm nó, đừng kháng cự lại nó. Hợp tác với bất kì cái gì thân thể làm. Bất kì cái gì xảy ra với nó, cho phép điều đó xảy ra đầy đủ. Để cho điều đó xảy ra, điều đó xảy ra với thân thể. Nó sẽ biến thành các điệu bộ, cử chỉ khác. Nó sẽ xoay tròn và xoay tròn. Nhiều điều sẽ xảy ra, khi năng lượng bên trong thức dậy. Nó có thể bùng phát thành tiếng la hét, kêu gào và khóc lóc. Đừng lo nghĩ chút nào. Buông bỏ... Buông bỏ thân thể. Bạn phải làm mệt mỏi thân thể hoàn toàn. Trước khi nó đi vào thảnh thơi, kéo căng và sử dụng nó toàn bộ. Buông bỏ thân thể... Hợp tác với thân thể. Thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu và thở sâu.
(Tại giai đoạn này băng ghi âm ghi được một tiếng đập và mất trật tự, nhưng Osho vẫn tiếp tục hướng dẫn việc thiền như thường lệ, và nó vẫn cứ diễn ra. Các thiền nhân tiếp tục thở sâu và buông bỏ toàn bộ thân thể mình. Khi tới cao trào Osho yêu cầu họ đi vào giai đoạn thứ ba.)
Giai đoạn thứ ba
(Osho yêu cầu các thiền nhân tiếp tục thở sâu, và buông bỏ thân thể họ như trong giai đoạn thứ hai và thêm vào đó là câu hỏi: "Tôi là ai?" Trong mười phút này người tiếp tục yêu cầu họ đem tất cả năng lượng của mình vào câu hỏi: "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?"
Và khi điều đó đạt tới cực đỉnh của nó, Osho yêu cầu họ dừng mọi thứ, dừng thở và chuyển động thân thể và đi vào thảnh thơi toàn bộ.)
Giai đoạn thứ tư
(Osho, trong giai đoạn mười phút cuối này, yêu cầu các thiền nhân buông bỏ mọi thứ kể cả thở sâu, thanh tâm thân thể và việc hỏi câu hỏi, "Tôi là ai?" và nằm ra và thảnh thơi và chỉ thảnh thơi thôi. Người bảo họ thảnh thơi theo cách dường như họ chết rồi, dường như họ không còn nữa. Người bảo họ nghe tiếng rì rầm của đại dương, tiếng xào xạc của gió luồn qua rặng thông và tiếng líu lo của chim chóc. Osho cũng yêu cầu họ vào trạng thái chờ đợi - chờ đợi cái không biết.
Trong mười phút này toàn bộ khu vực thiền trở thành yên tĩnh và im lặng tới mức không nghe thấy cái gì ngoại trừ tiếng vỗ bập bềnh của sóng biển, tiềng xào xạc của gió luồn qua rặng thông và tiếng hót của chim chóc.
Trong giai đoạn cuối này hàng trăm thiền nhân đi vào thiền sâu và họ trở thành một với tự nhiên tất cả bao quanh họ.
Đến cuối buổi thiền Osho yêu cầu họ chậm rãi mở mắt ra và đứng dậy khỏi chỗ của họ. Osho yêu cầu những người không dễ mở mắt ra, thở sâu thêm và che mắt bằng bàn tay thật nhẹ nhàng.)
Chương 6. Ân huệ của Thượng đế và nỗ lực của chúng ta
Một bạn hỏi: người ta có đạt tới thiền qua ân huệ của thượng đế không?
Sẽ có ích để hiểu điều này, bởi vì nó đã đưa tới nhiều hiểu lầm và sai lầm. Số khá đông mọi người vẫn nghĩ rằng nếu thiền được đạt tới qua ân huệ của Thượng đế thế thì không có nhu cầu làm gì cả, và họ đã không làm việc. Bạn sai lầm nghiêm trọng nếu bạn ngụ ý bằng ân huệ của Thượng đế bạn không phải làm gì cả.
Một hiểu lầm khác bắt nguồn từ nó là ở chỗ ân huệ của Thượng đế không sẵn có như nhau cho mọi người, ở chỗ người này nhận nhiều hơn và người khác nhận ít hơn. Nhưng trong thực tế, không ai là người được Thượng đế chọn cả; không ai là người được mến chuộng của ngài. Và cho dù Thượng đế có người mến chuộng thì cũng không có hi vọng nào về bình đẳng trong thế giới này. Nếu bạn ngụ ý ân huệ của Thượng đế là Thượng đế tốt với ai đó và không tốt với người khác thế thì bạn sai lầm nghiêm trọng.
Nhưng phát biểu rằng người ta đạt tới thiền qua ân huệ của Thượng đế hoàn toàn đúng theo nghĩa khác. Thực sự đó không phải là phát biểu của người còn chưa đạt tới thiền. Đó là phát biểu của người đã chứng ngộ - những người đã đạt tới nó. Nó là vậy bởi vì khi nó xảy ra, khi người ta tới với nó, nỗ lực người đó đã làm dường như hoàn toàn chẳng liên quan gì cả. Trong hoàn cảnh của việc đạt tới, bao la thế, nỗ lực này có vẻ nhỏ bé đến mức người ta đơn giản không thể nói được rằng mình đã tới nó qua nỗ lực. Khi người ta đi tới nó người ta cảm thấy bị tràn ngập với sự mênh mông của nó tới mức người ta nói, "Làm sao nó có thể đã xảy ra qua nỗ lực của mình được? Mình đã làm gì để tìm ra nó? Mình đã trả giá nào? Mình đã đặt cược cái gì vào nó? Mình có cái mà mình có thể đã cúng dường không? Chẳng có gì cả." Khi phúc lạc vô hạn vô vàn của Thượng đế mưa rào lên bất kì ai, người đó chỉ kêu lên, "Chính là qua từ bi của ngài, hỡi Thượng đế, chính qua ân huệ của ngài, mà tôi đi tới ngài! Bằng không thì nó ở bên ngoài tôi, bên ngoài tôi không thể tới được."
Nhưng nhớ rằng đây là phát biểu của người được phúc lành, người chứng ngộ. Nếu người chưa chứng ngộ, người mới điểm đạo mà níu bám lấy nó, họ sẽ bị lạc đường mãi mãi. Nỗ lực là điều bản chất; người ta phải làm nỗ lực.
Việc xảy ra của thiền hay chứng ngộ hay bất kì cái gì bạn gọi nó đều giống như việc mở cánh cửa ngôi nhà trong bóng tối để cho mặt trời chiếu vào. Mặc dầu mặt trời đã mọc ở phương đông, nếu chúng ta để cửa nhà đóng kín, chúng ta bao giờ cũng trong bóng tối. Còn nếu chúng ta mở cửa và chờ đợi, mặt trời sẽ vào theo cách riêng của nó. Không nỗ lực nào cần có để đem mặt trời vào; chúng ta không thể đặt ngài hay ánh sáng của ngài vào bình chứa và đem vào nhà mình được. Mặt trời tới theo cách riêng của nó. Điều trớ trêu là ở chỗ trong khi nỗ lực của chúng ta không thể đem ngài vào, thì chúng chắc chắn có thể giữ ngài ở ngoài, ngăn cản không cho ngài vào. Nếu chúng ta đóng cửa hay nhắm mắt, ngay cả mặt trời cũng thành bất lực chẳng làm được gì. Chúng ta có thể giữ mặt trời ở ngoài nhà mình, chúng ta có khả năng dừng mặt trời lại; nhưng chúng ta không có khả năng dẫn ngài đi vào. Chỉ để cửa mở và ngài sẽ vào. Và khi mặt trời vào rồi, chúng ta không thể nói rằng chúng ta đã đem ngài vào được, chúng ta không thể nhận công lao đó được. Chúng ta chỉ có thể nói rằng chính bởi lòng tốt của ngài mà ngài đã vào nhà chúng ta. Và chúng ta chỉ có thể nói rằng chúng ta đã nhân từ với chính mình tới mức không đóng cửa của mình lại.
Con người chỉ có thể là lối mở, là cánh cửa cho Thượng đế vào. Nỗ lực của chúng ta chỉ mở ra cánh cửa; việc tới của ngài phụ thuộc vào ngài, vào từ bi của ngài. Và từ bi của ngài là vô hạn, nó hiện diện mãi mãi tại mọi ngưỡng cửa. Nhưng ngài có thể làm được gì nếu ngài thấy nhiều cánh cửa đóng lại với ngài? Thượng đế gõ mọi cửa và quay đi khi ngài thấy cửa đóng. Và chúng ta đã đóng cửa của mình chắc thế. Cho nên bất kì khi nào ngài tới và gõ cửa, chúng ta giải thích duy lí điều đó, chúng ta giải thích điều đó theo bao nhiêu cách, và chúng ta vẫn còn bằng lòng với điều đó.
Tôi muốn kể cho các bạn một câu chuyện tôi thích kể.
Có một ngôi đền lớn với hàng trăm tu sĩ chăm nom nó. Một đêm ông chủ đền đi ngủ và mơ rằng Thượng đế đã báo mộng rằng ngài sẽ tới thăm ngôi đền vào ngày hôm sau. Ông ấy không tin vào điều đó, bởi vì khó mà bắt gặp một người nhiều hoài nghi hơn tu sĩ này. Ông ấy không tin vào giấc mơ của mình bởi lí do khác nữa. Những lái buôn trong tôn giáo không bao giờ tin vào tôn giáo. Họ chỉ khai thác tôn giáo, cái không bao giờ trở thành niềm tin của họ, chân lí của họ. Không ai trên thế giới không có niềm tin tôn giáo hơn người đã biến niềm tin thành phương tiện khai thác. Cho nên ông chủ đền này không thể tin được vào Thượng đế thực sự tới thăm đền này.
Tu sĩ này chưa bao giờ tin vào những điều như vậy, mặc dầu ông ấy đã là tu sĩ trong nhiều năm. Ông ấy đã tôn thờ Thượng đế từ lâu và ông ấy biết rằng Thượng đế chưa bao giờ viếng thăm ngôi đền của ông ấy cho dù một lần. Mỗi ngày ông ấy đều cúng dường thức ăn cho Thượng đế, và ông ấy biết rằng ông ấy thực tế đã cúng dường nó cho bản thân mình. Ông ấy cũng đã cầu nguyện Thượng đế hàng ngày, nhưng ông ấy biết rõ rằng lời cầu nguyện của mình mất tăm mất tích trên thinh không, bởi vì chẳng có ai ở đó để nghe chúng. Cho nên ông ấy nghĩ rằng thông điệp này là không đúng, nó chỉ là mơ, và mơ hiếm khi biến thành thực tại.
Nhưng thế rồi ông ấy sợ nữa, e rằng giấc mơ nhỡ đúng thì sao. Vào nhiều lúc điều chúng ta gọi là mơ biến thành thực tại và thực tại như chúng ta biết nó chứng tỏ là mơ. Đôi khi điều chúng ta nghĩ là mơ, thực tế trở thành thực tại. Cho nên ông chủ đền này cuối cùng quyết định báo cho các đồng môn gần gũi của mình về giấc mơ đêm qua của mình. Ông ấy nói với các tu sĩ khác, "Mặc dầu điều đó dường như là trò đùa, vậy mà tôi vẫn phải kể cho các ông về điều đó. Đêm qua tôi đã mơ rằng Thượng đế nói rằng ngài sẽ tới thăm chúng ta hôm nay." Các tu sĩ khác đều cười và họ nói, "Ông có điên không mà đi tin vào giấc mơ? Tuy nhiên, chớ có kể cho người khác về điều đó; bằng không họ sẽ coi ông là điên đấy." Nhưng ông chủ đền nói, "Trong trường hợp ngài tới, chúng ta nên được chuẩn bị về điều đó. Cũng chẳng hại gì nếu ngài không xuất hiện, nhưng nếu ngộ nhỡ ngài tới, chúng ta sẽ không bị coi là ngu."
Cho nên cả ngôi đền và các vườn tược đều được lau chùi, dọn dẹp, tẩy rửa và làm sạch chu đáo. Nó được trang hoàng bằng hoa và cờ và tràng hoa. Đèn được thắp lên và hương được đốt. Mùi hương bốc lên và mọi loại chuẩn bị được thực hiện. Các tu sĩ mệt nhoài trong suốt cả ngày, mà Thượng đế chẳng hiện lên. Mọi người thỉnh thoảng ngó ra đường, họ thất vọng, và họ nói, "Mơ sau rốt cũng chỉ là mơ thôi; Thượng đế không định tới đâu. Chúng ta đều là kẻ ngu mà tin vào điều như vậy. Cũng tốt là chúng ta đã không thông báo cho mọi người trong thị trấn; bằng không thì họ đơn giản đã cười chúng ta."
Đến tối các tu sĩ từ bỏ hi vọng, và họ nói, "Bây giờ chúng ta ăn thức ăn xa hoa được nấu cho Thượng đế đi. Chưa bao giờ có được như vậy: cái chúng ta cúng dường cho Thượng đế chung cuộc được chúng ta ăn.
Chẳng ai định hiện lên cả. Chúng ta đủ điên mà đi tin vào giấc mơ. Điều trớ trêu là ở chỗ chúng ta chủ định làm thức ăn này cho chúng ta. Nếu người khác phát điên, họ có thể được miễn lỗi, bởi vì họ không biết. Nhưng chúng ta biết Thượng đế chẳng bao giờ tới cả. Thượng đế ở đâu? Có thần tượng này trong đền; tất cả mọi thứ có đó để cho nó. Và đó là công việc của chúng ta, nghề nghiệp của chúng ta để tôn thờ ngài." Và thế rồi họ ăn ngon lành và đi ngủ sớm vì họ đều mệt nhoài.
Khi nửa đêm tới một chiếc xe được kéo tới cổng ngôi đền, và người ta nghe thấy tiếng động của nó. Một trong các tu sĩ đang ngủ nghe thấy điều đó và nghĩ rằng đó là xe của Thượng đế. Ông ta kêu lên cho những người khác, "Nghe này các bạn và thức dậy đi. Dường như là ngài đấy, người chúng ta đã trông đợi cả ngày, sau cùng đã tới. Tôi nghe thấy tiếng động của xe." Các tu sĩ khác làm cụt hứng người này khi nói, "Câm đi, ông điên rồi. Chúng ta đã có đủ điên khùng cả ngày ngày rồi, bây giờ đang đêm để chúng tôi ngủ cho ngon. Đấy không phải là tiếng động của xe kéo đâu, mà chỉ là tiếng sấm của mây trên trời thôi." Cho nên họ luận giải xong sự việc này và trở lại giường mình.
Thế rồi chiếc xe dừng lại cạnh cổng, và ai đó bước lên các bậc của ngôi đền và gõ vào cửa. Và lần nữa một trong các tu sĩ thức dậy từ giấc ngủ và kêu lên với bạn đồng liêu của mình, "Dường như vị khách đã tới người mà chúng ta đã chờ đợi cả ngày dài. Ngài đang gõ cửa đấy." Các tu sĩ khác mắng mỏ ông này như họ đã làm với người thứ nhất. Họ nói, "Ông có điên không đấy? Ông không cho chúng tôi ngủ sao? Đấy chỉ là việc chạm của gió vào cửa chứ không phải việc gõ của người gọi đâu." Thế rồi họ luận giải rồi trở lại giường của mình.
Sáng hôm sau họ thức dậy và bước ra cổng đền. Và họ sững sờ khi thấy vài dấu chân trên bậc của đền. Chắc chắn là ai đó đã trèo lên chúng trong đêm. Và thế rồi họ để ý một số dấu hiệu của bánh xe trên đường, và bây giờ thì không còn nghi ngờ gì nữa là chiếc xe đã tới cổng đền trong đêm. Và điều kì lạ là dấu chân trên bậc tuyệt đối không bình thường và không được biết tới. Bây giờ các tu sĩ bật khóc và khuỵu xuống và bắt đầu lăn lộn trên đất nơi chiếc xe đã dừng lại. Và ngay lúc đó cả làng đã kéo đến cổng đền. Mọi người trong đám đông đều hỏi với sự hoang mang, "Có chuyện gì thế nhỉ?" Các tu sĩ nói, "Đừng hỏi có chuyện gì. Thượng đế đã gõ cửa ngôi đền chúng tôi đêm qua, nhưng chúng tôi đã luận giải mọi việc. Chúng tôi bây giờ đáng bị nguyền rủa. Ngài đã gõ cửa và chúng tôi cứ nghĩ rằng đấy là âm thanh của gió gõ vào cửa. Xe của ngài đã tới, và chúng tôi cứ nghĩ rằng đó là tiếng sấm trên trời. Sự thực là ở chỗ chúng tôi đã không hiểu cái gì cả. Chúng tôi chỉ giải thích những điều đó cho qua, bởi vì chúng tôi muốn hưởng giấc ngủ của mình."
Thượng đế gõ mọi cánh cửa. Ân huệ của ngài tới thăm mọi nhà. Nhưng cánh cửa của chúng ta đóng im ỉm. Và thậm chí khi chúng ta nghe thấy tiếng gõ chúng ta lập tức luận giải nó và giải thích nó cho xong.
Ngày xưa họ có câu nói rằng "Khách là Thượng đế". Có hơi chút sai lầm trong câu cách ngôn này. Chân lí là ở chỗ Thượng đế là khách. Thượng đế đang đợi như vị khách tại bậc cửa nhà chúng ta, nhưng cánh cửa bị đóng. Ân huệ của ngài là sẵn có như nhau cho tất cả mọi người. Do đó đừng hỏi liệu người ta có đạt tới qua ân huệ của ngài không; người ta đạt tới qua ân huệ của một mình ngài. Và khi có liên quan tới nỗ lực của chúng ta, thì nỗ lực là sự giúp đỡ trong việc mở cánh cửa, trong việc loại bỏ rào cản hỏi con đường.
Khi ngài tới, ngài tới theo ý riêng của ngài.
Một bạn khác đã hỏi: Thầy đã nói về bốn giai đoạn của thiền. Xin thầy giải thích chúng một cách đầy đủ?
Trước hết, bạn nên biết rằng ba giai đoạn đầu trong chúng đơn thuần là các bước tới thiền, không phải là bản thân thiền. Giai đoạn thứ tư là cánh cửa, trong khi ba giai đoạn kia là các bậc cửa. Các bậc không làm thành cửa, chúng chỉ dẫn tới cửa. Giai đoạn thứ tư là cánh cửa tới thiền, là việc thảnh thơi và nghỉ ngơi, trống rỗng và hư không, buông xuôi và dừng lại, tan biến và chết, hay bất kì điều gì bạn gọi nó. Đó là cánh cửa, và ba bước đầu tiên đưa chúng ta tới nó.
Và nguyên tắc nền tảng nằm sau ba giai đoạn đầu tiên là một. Nếu người ta định thảnh thơi, người đó sẽ phải trải qua trạng thái căng thẳng tuyệt đối; thế thì việc chuyển qua thảnh thơi trở thành khá dễ dàng. Nếu một người làm việc cả ngày, người đó có thể ngủ ngon trong đêm. Người càng làm việc vất vả thì người đó ngủ càng say. Người ta có thể tranh luận rằng vì ngủ là đối lập với làm, làm sao người làm việc vất vả có thể ngủ được? Người đó phải không có khả năng ngủ, bởi vì lao động và nghỉ ngơi đối lập lẫn nhau thế. Một cách logic việc ngủ nên có sẵn cho người nghỉ cả ngày trên giường. Nhưng chân lí là ở chỗ người đó sẽ không thể ngủ được vào ban đêm nếu người đó nghỉ cả ngày rồi.
Đó là lí do tại sao, khi cuộc sống con người càng thoải mái hơn, việc ngủ của người đó đã biến mất khỏi thế giới theo cùng mức độ. Chúng ta càng có thoải mái và an nhàn, chúng ta sẽ có giấc ngủ càng ít hơn. Và điều trớ trêu là ở chỗ chúng ta cứ thêm mãi những tiện nghi với hi vọng rằng chúng sẽ giúp chúng ta ngủ không bị quấy rối. Nhưng điều ngược lại xảy ra. Với sự phát triển của văn minh và an nhàn, giấc ngủ sẽ biến mất, bởi vì công việc vất vả là điều tiên quyết cho giấc ngủ. Khi người ta làm việc thì người ta ngủ. Tương tự khi căng thẳng của con người tăng lên và đạt tới cực đỉnh của nó thì người này dễ trượt vào thảnh thơi sâu.
Ba bước đầu tiên hoàn toàn mâu thuẫn với bước thứ tư, chính là thiền. Người ta có thể hỏi, làm sao người nào có thể thảnh thơi được sau khi cố gắng vất vả thế, sau khi trải qua những đỉnh căng thẳng và hỗn loạn chạm tới điên khùng thế? Tôi nói, chỉ thế thì người đó mới có thể thảnh thơi được. Sự thực là ở chỗ việc thảnh thơi đó đi sau căng thẳng như đêm theo sau ngày, như thung lũng tiếp nối đỉnh cao. Đỉnh càng cao, thung lũng càng sâu. Bạn ngã từ núi càng cao, bạn rơi vào hẻm núi càng sâu. Đừng quên rằng mọi núi đều có thung lũng của nó. Trong thực tế không thể có núi mà không có thung lũng được. Khi núi vươn lên cao nó tạo ra thung lũng sâu bao khắp quanh nó. Đó là cách mà khi căng thẳng của bạn tăng lên, ngay bên cạnh đó bạn đang thu thập năng lượng để thảnh thơi và nghỉ ngơi. Đỉnh căng thẳng càng cao, thung lũng nghỉ ngơi càng sâu. Đó là lí do tôi yêu cầu các bạn đem tất cả năng lượng của mình vào trong nó, dùng hết sức của bạn, đặt cược tất cả mọi thứ của bạn và không giữ lại cho mình dù chỉ là chút ít.
Đó là cách bạn sẽ đạt tới chiều cao của căng thẳng và thế rồi đi xuống hố, đáy của thảnh thơi và nghỉ ngơi. Và chính trong khoảnh khắc đó của nghỉ ngơi tuyệt đối thiền xảy ra.
Điều cơ bản là ở chỗ bạn phải đạt tới đỉnh căng thẳng và thế rồi vứt bỏ căng thẳng đi. Nhiều người tới tôi để hỏi chẳng lẽ không thể thảnh thơi được mà không đi vào căng thẳng sao. Không, điều đó đơn giản là không thể được. Và cho dù nó có thể đi chăng nữa thì nó cũng chỉ là thảnh thơi trên danh nghĩa mà thôi. Nếu bạn muốn chìm sâu vào trong nước thì sẽ cần phải nhảy từ bàn nhảy cao. Bàn nhảy càng cao việc chìm càng sâu. Nhìn vào những cây thông này, chúng phải cao đến cỡ mười hai mét. Để đạt tới chiều cao đó rễ của chúng phải ăn sâu vào lòng đất mười hai mét. Cây càng vươn lên cao hơn, thì rễ càng ăn sâu vào đất hơn. Rễ càng ăn sâu vào đất, cây càng vươn cao hơn. Bây giờ cây thông này có thể hỏi, "Có hại gì nếu rễ của mình chỉ ăn sâu một mét rưỡi thôi?" Điều đó sẽ chẳng hại gì nếu bản thân cây này chỉ cao mét rưỡi. Và nếu rễ không phát triển chút nào thì cũng không có cơ hội nào cho cây hiện hữu cả.
Nietzsche đã viết một câu cách ngôn sáng suốt lắm. Ông ấy nói rằng nếu người ta muốn đạt tới chiều cao của thiên đường, người ta phải chạm tới chính chiều sâu của địa ngục. Đấy thực sự là một phát biểu sáng suốt lớn lao. Nếu con người muốn đạt tới chiều cao của thiên đường, con người sẽ phải đi tới chiều sâu của địa ngục. Đó là lí do tại sao người tầm thường không bao giờ có thể đạt tới chiều cao của tôn giáo, trong khi tội phạm thường đạt tới. Bởi vì người đi sâu vào trong tội lỗi có thể vươn lên chiều cao của ngay thẳng đạo đức.
Kĩ thuật thiền là một cách biến đổi qua các cực điểm. Mọi biến đổi xảy ra khi cực điểm được đạt tới. Nếu một hiện tượng đạt tới cực điểm của nó, thay đổi xảy ra. Bạn đã bao giờ quan sát quả lắc của đồng hồ treo tường chuyển động chưa? Nếu nó đi sang trái, nó cứ đi sang bên trái cho tới khi nó đạt tới điểm cực trái và thế rồi nó đi ngược lại sang phải. Bạn có thể không để ý rằng khi quả lắc của đồng hồ đi sang trái đồng thời nó cũng tích đà để đi sang phải. Và nó sẽ đi sang phải với cùng mức độ như nó đi sang trái. Trường hợp con lắc của tâm trí bạn cũng như vậy. Nếu nó được đưa tới cực điểm của căng thẳng, nó sẽ đung đưa lại từ đó và đi vào trong cốt lõi sâu nhất của thảnh thơi. Bạn không thể thảnh thơi nếu bạn không được đưa tới điểm căng thẳng cực đại.
Một số người tới tôi với những câu hỏi rất lạ. Dường như là họ đi ra để lấy hoa mà không đi vào rắc rối của việc trồng cây. Dường như là họ muốn được thu hoạch mà không gieo hạt và không chăm nom mùa màng.
Một người bạn muốn biết liệu có khó khăn nào không nếu người đó không rung thân thể và không cho phép nó run lên. Sẽ không có khó khăn nào cả. Khó khăn gì có đó nếu bạn không muốn làm cái gì cả? Nếu người đó sợ chuyển động thân thể, người đó sẽ làm gì khi năng lượng bên trong bắt đầu chuyển động? Nếu người đó muốn kìm hãm thân thể không cho rung lên, người đó sẽ làm gì khi kundalini bắt đầu đi lên? Không, người đó muốn cái bên trong xảy ra và vậy mà người đó vẫn phải được nhìn từ bên ngoài vẫn là người văn minh và văn hoá mà người đó tự nghĩ về mình là vậy. Người đó muốn rằng mình sẽ đứng như bức tượng sáp ong, và vậy mà cái gì đó phải xảy ra bên trong người đó. Người đó không biết rằng tượng sáp ong của mình sẽ tan chảy ra và biến mất trong không khí loãng một khi năng lượng bên trong dâng lên. Nó sẽ tan biến, tạo ra chỗ cho cái gì đó không biết.
Làm việc cật lực để cho căng thẳng của bạn đạt tới đỉnh của nó và chỉ thế thì bạn mới có thể đạt tới đỉnh thảnh thơi. Thế thì phần còn lại sẽ xảy ra theo cách riêng của nó. Bạn chỉ phải tạo ra căng thẳng; an bình sẽ tới qua ân huệ của Thượng đế. Bạn chỉ có thể nâng cơn bão của căng thẳng lên cực đỉnh của nó; thế rồi cơn bão sẽ lắng xuống theo cách riêng của nó và an bình sẽ ngự trị. Không có an bình nào giống như an bình tới sau cơn bão. An bình đi theo cơn bão là an bình sống, bởi vì nó được sinh ra từ cơn bão. Và để đi tới an bình sống này điều bản chất, và tôi nhấn mạnh, là tất cả các giai đoạn thiền nên được trải qua hết, không giai đoạn nào có thể bị bỏ qua. Cho nên sẽ không ai tới tôi và hỏi liệu giai đoạn này hay giai đoạn kia có thể được bỏ bớt đi không hay liệu người ta có thể làm mà không có thở sâu, không rung lên hay không hỏi "Tôi là ai?" Không, ba giai đoạn đầu tiên được ngụ ý để đưa các bạn từ cực điểm này sang cực điểm khác theo một cách thức rất hệ thống và khoa học.
Chính với lí do này mà tôi nhấn mạnh rằng chỉ khi một giai đoạn đạt tới cực đỉnh của nó chúng ta mới có thể chuyển sang giai đoạn tiếp. Điều đó giống như việc chuyển số khi lái xe. Nếu bạn đang lái xe đi số một, ban đầu bạn đưa nó lên hết tốc độ rồi đổi qua số thứ hai. Và chừng nào mà tốc độ trong số thứ hai còn thấp, bạn không đưa xe vào số thứ ba. Tất cả mọi sự thay đổi xảy ra tại tột đỉnh. Đấycũng là trường hợp cho việc biến đổi tâm trí; nó xảy ra tại tột đỉnh nữa.
Bạn phải hiểu đầy đủ ý nghĩa của ba giai đoạn này. Giai đoạn thứ nhất bao gồm việc thở, thở sâu và nhanh. Việc thở sẽ tiếp tục qua toàn bộ chiều dài của cả ba giai đoạn; nó được mang qua giai đoạn thứ hai và ba nữa. Và việc thở phải là cả sâu và nhanh. Bạn phải thở sâu nhất có thể được, và bạn phải thở nhanh nhất có thể được. Và qui tắc thở sâu và nhanh này nên ngự trị cả việc hít vào và thở ra. Nhưng tại sao? Thở sẽ làm cái gì?
Thở là yếu tố bí ẩn nhất trong cuộc sống con người. Chính qua trung gian của hơi thở mà thân thể được hợp nhất với linh hồn. Đó là lí do tại sao chúng ta nói rằng một người là sống chừng nào người đó còn thở. Với việc thở mất đi, cuộc sống đi tới chấm dứt.
Gần đây tôi ngẫu nhiên tới thăm một gia đình có người đàn bà nằm trong trạng thái hôn mê trong chín tháng. Và các bác sĩ nói rằng cô ấy bây giờ sẽ không bao giờ có lại được ý thức của mình nữa, mặc dầu cô ấy có thể sống thêm ba năm nữa. Người đàn bà này được giữ sống với sự trợ giúp của thuốc và thức ăn được tiêm vào thân thể cô ấy trong trạng thái hôn mê. Cô ấy hoàn toàn vô ý thức; trong chín tháng cô ấy đã không thu lại được ý thức cho dù chỉ một lần. Tôi đã tới thăm gia đình cô ấy và tôi bảo bà mẹ cô ấy rằng cô ấy hầu như chết rồi. Bà già nói, "Không, chừng nào việc thở vẫn còn kéo dài thì bao giờ cũng còn có hi vọng. Các bác sĩ nói không có hi vọng, nhưng ai biết được? Các bác sĩ không phải bao giờ cũng đúng. Ai biết được? Nó có thể thu lại ý thức chứ, bởi vì nó vẫn tiếp tục thở. Có hơi thở; cây cầu vẫn còn chưa bị sập. Nó có thể trở lại ý thức."
Hơi thở là cây cầu nối linh hồn với thân thể. Khi bạn thở sâu và nhanh, không chỉ thân thể bị rung lên, ngay cả từng thớ của linh hồn bên trong cũng rung lên. Chẳng hạn, có một cái chai nằm trên giá của bạn lâu rồi. Nó chứa đầy chất lỏng nào đó và nó đã không bị lắc trong một thời gian dài. Cho nên dường như là cái chai và chất lỏng trong nó là hai điều tách biệt. Không bị khuấy lên trong một thời gian dài cái chai và chất lỏng trong nó dường như là một mảnh. Bây giờ bạn lắc mạnh cái chai. Cùng với cái chai, chất lỏng bên trong nó cũng bị lắc. Chỉ thế thì sự tách biệt giữa chúng mới trở nên rõ ràng. Tương tự khi bạn thở tại mức độ cao nhất bạn tạo ra cơn bão không chỉ làm rung chuyển thân thể bạn mà còn làm rung chuyển mọi thớ linh hồn bên trong. Và chính trong khoảnh khắc của run rẩy đó mà bạn cảm thấy rõ ràng rằng thân thể và linh hồn là tách biệt.
Bây giờ bạn tới và hỏi, "Điều gì xảy ra nếu tôi không thở sâu? Có hại không?" Điều đó sẽ chỉ hại theo kiểu này - rằng bạn sẽ chẳng bao giờ biết được bạn là tách rời với thân thể mình. Đó là lí do tại sao điều kiện cơ sở đã được gắn với việc thở, rằng bạn phải là nhân chứng cho nó. Bạn thở sâu và bạn quan sát đồng thời rằng hơi thở này đi vào và hơi thở khác đi ra. Khi bạn quan sát những chuyển động hơi thở đi vào và đi ra, bạn biết rằng không chỉ thân thể là tách rời, ngay cả hơi thở cũng tách khỏi bạn. Thế thì bạn biết rằng bạn chỉ là người quan sát tách rời khỏi cả thân thể và hơi thở. Sự tách rời của người ta với thân thể có thể được biết qua một mình việc thở, nhưng việc tách rời khỏi hơi thở có thể được nhận ra qua chứng kiến việc thở.
Cho nên hai điều, thở sâu và chứng kiến, làm ra giai đoạn thứ nhất, và chúng chạy suốt qua giai đoạn thứ hai cho tới cuối - tức là, giai đoạn thứ ba.
Tôi yêu cầu các bạn buông bỏ thân thể trong giai đoạn thứ hai. Thở sâu sẽ tiếp tục, và thêm vào đó các bạn phải buông bỏ thân thể. Nó có nhiều ngụ ý, và tôi định đi vào vài điều trong chúng ở đây.
Thứ nhất, có hàng nghìn mối căng thẳng trong thân thể các bạn và các bạn không nhận biết về chúng, mặc dầu đây là tuyển tập của các bạn. Nền văn minh đã làm cho các kiếp sống của chúng ta thành phi tự nhiên đến mức ngay cả khi các bạn giận ai đó, các bạn vẫn nở nụ cười trước người đó. Thân thể các bạn không nhận biết về thái độ lịch sự của bạn; nó cảm thấy muốn bóp nghẹt người có liên quan. Nắm đấm của bạn tự chúng siết lại, nhưng bạn nở nụ cười giả tạo và bạn không cho phép nắm đấm siết lại, bạn kìm nén chúng. Thế thì thần kinh thân thể vốn đã tự chuẩn bị sẵn sàng cho nắm đấm siết lại thấy khó khăn lớn. Chúng đơn giản không hiểu tất cả những điều này là gì. Và trạng thái bất ổn được tạo ra trong thân thể. Nắm đấm đáng phải được siết lại.
Những người nghiên cứu và hiểu sâu về giận dữ đều nói - và tôi cũng nói cùng điều đó - rằng bất kì khi nào bạn giận dữ thế, hãy chỉ làm một điều thôi. Đừng nở nụ cười giả tạo, thay vào đó siết nắm đấm dưới gầm bàn, nếu bạn có chiếc bàn trước mình, và siết chặt rồi thả chúng ra một cách mạnh mẽ trong năm phút. Và thế rồi bạn sẽ cười to, và đó sẽ là tiếng cười khác hẳn.
Thân thể không biết chút gì rằng con người đã trở nên văn minh. Thân thể vận hành hoàn toàn như cái máy. Nhưng con người đã đặt những ràng buộc lớn lên hoạt động của nó; thân thể đã bị làm mất tự nhiên theo đủ mọi cách. Và chính vì những việc thiếu tự nhiên này mà thân thể bạn đã trở thành nhà kho chứa mọi thứ căng thẳng; hàng nghìn căng thẳng được tụ tập bên trong thân thể bạn.
Và quá nhiều căng thẳng tạo nên phức cảm - những cái nút căng thẳng.
Cho nên khi tôi yêu cầu các bạn buông bỏ thân thể và các bạn làm như vậy, thế thì những phức cảm này, đã từng có đó từ thời trẻ thơ của các bạn, bắt đầu chùng dần ra và tan biến đi. Việc chùng dần ra và tan biến đi của chúng là rất cần thiết; bằng không bạn sẽ chẳng bao giờ đạt tới vô thân thể, bạn sẽ chẳng bao giờ siêu việt lên trên thân thể và đi ra ngoài nó. Với tan biến của phức cảm, thân thể bạn sẽ trở thành nhẹ như hoa.
Có lẽ bạn đã nghe nói về cái tên được đặt cho Mahavira, tirthankara của người Jaina. Một trong những cái tên của ông ấy là Nirgrantha, tên độc đáo. Theo từng chữ nó có nghĩa là vô phức cảm - người không có phức cảm. Nirgrantha là người có tất cả các phức cả đã bị tan biến và biến mất, người tự do khỏi mọi cái nút bên trong, người không có phức cảm nào, người đã trở thành tuyệt đối đơn giản và hồn nhiên.
Khi mạng lưới các phức cảm muốn chùng đi, muốn tự do, bạn không cho phép nó, bạn kháng cự lại. Văn minh của bạn, văn hoá của bạn, ước định của bạn, kiềm chế của bạn, vị trí là đàn ông hay đàn bà của bạn, việc bạn là thế này thế nọ - tất cả những điều này bắt giữ bạn mạnh đến mức bạn không buông bỏ thân thể mình.
Mới sáng nay một phụ nữ tới tôi và nói rằng cô ấy sợ khi đang thiền tay ai đó có thể sờ vào thân thể cô ấy. Ngay bây giờ người đàn bà đáng thương này phải đang ngồi cách thật xa tất cả các bạn. Nhưng mặc cho điều đó nếu thân thể của ai đó lăn ra và tiến tới cô ấy, cô ấy sẽ là đống lộn xộn lần nữa. Cô ấy muốn biết liệu cô ấy có thể ngồi tách ra được không. Tôi bảo cô ấy, "Ai biết được, thượng đế ở trên trời có thể phái người tới bất kì chỗ nào bạn sẽ đi. Cũng tốt là ai đó tới bạn. Người đó sẽ tới với bạn ở bất kì chỗ nào bạn sẽ đi. Cho nên đừng thay đổi vị trí của bạn. Và có hại gì nếu ai đó chạm vào thân thể bạn?"
Cách thức của đàn bà thường hay là thế cho dù Thượng đế có đi ngang qua đường của họ thì họ sẽ co tránh ngài, cứ sợ rằng ngài sẽ chạm vào thân thể họ. Toàn bộ thân thể họ bị đè nặng bởi những phức cảm. Từ thời trẻ thơ họ đã được huấn luyện và qui định theo cách là họ nhìn vào thân thể mình cứ dường như đó là bệnh tật họ phải mang. Họ không sống trong thân thể; đấy chỉ là một tải trọng họ miễn cưỡng mang theo mình. Thân thể giống như cái áo choàng họ mang, cứ lo lắng mọi lúc làm sao bảo vệ nó, mặc dầu chẳng có gì về nó đáng bảo vệ cả. Nhưng một ưa chuộng nhỏ mọn như vậy kiềm chế chúng ta theo cách rất to tát.
Nếu một người được giáo dục tốt, người đó có thể nghĩ... Mới hôm nay, một quí ông bảo tôi rằng chỉ người xúc cảm, và không phải là trí thức, mới trải qua những kinh nghiệm như vậy. Điều đáng ngạc nhiên là nếu một người qua được vài cấp là người đó trở thành trí thức. Nếu mẹ người đó chết, người đó sẽ khóc hay không khóc cho bà ấy? Người đó sẽ yêu hay không yêu ai đó, bởi vì người đó là người trí thức? Bởi vì người đó đã học qua vài cấp và được đảm bảo bằng chứng chỉ từ đại học nào đó, người đó sẽ nghĩ hai lần trước khi hôn người yêu của mình, bởi vì vài con vi trùng có thể được truyền từ người này sang người khác. Người đó sẽ tra cứu sách vở và suy nghĩ cân nhắc liệu người đó có nên cho phép xúc động của mình ảnh hưởng tới mình hay không. Trí năng của chúng ta đã trở thành một loại bệnh tật; nó không có hương thơm mà nó đáng phải có. Nó có thể đã là niềm vinh quang của chúng ta, nhưng nó đã biến thành bệnh tật.
Cho nên người ta nghĩ rằng bởi vì người đó là người trí thức, nên những điều như vậy không thể xảy ra được cho người đó; chúng chỉ xảy ra cho những người thiên về xúc động. Tại sao? Xúc cảm có sai không? Bất kì cái gì có ý nghĩa trong cuộc sống đều tới qua xúc cảm, không qua trí tuệ. Tất nhiên, các vấn đề của nhà toán học và kế toán viên và những điều giống thế này đều được trí tuệ xử trí; nhưng chẳng cái gì có ý nghĩa cả.
Điều đáng ngạc nhiên là ở chỗ ngay cả những khám phá của khoa học, điều là bộ môn trí thức vĩ đại nhất, cũng tới qua xúc cảm chứ không qua trí năng. Nếu ai đó hỏi Einstein ông ấy đã phát hiện ra lí thuyết tương đối như thế nào thì ông ấy sẽ nói, "Tôi không biết, điều đó chỉ xảy ra thôi." Đây là một phát biểu rất mang tính tôn giáo. Nếu bà Curie được hỏi bà ấy đã khám phá ra tia phóng xạ thế nào thì bà ấy sẽ nói, "Tôi không thể nói thế nào được; nó chỉ tới. Nó ở bên ngoài khả năng của tôi." Bất kì nhà khoa học lớn nào cũng đều sẽ nói cùng điều đó. Người đó sẽ nói, "Nó đã không tới qua việc tìm kiếm của tôi; nó là cái gì đó bên ngoài tôi. Nó tới từ cõi bên kia. Tôi chỉ là một công cụ, một trung gian." Đây chính xác là ngôn ngữ của tôn giáo.
Xúc cảm có chiều sâu lớn lao, trong khi trí năng nông cạn, hời hợt. Trí năng không là gì khác hơn tiện dụng. Nó giống như người dẫn đường đi trước chiếc xe của thống đốc khi ông ấy đi thăm các nơi. Đừng lấy người dẫn đường làm viên thống đốc. Trí năng không là gì khác hơn người dẫn đường đi dọn đường và điều khiển giao thông để cho xe của thống đốc có thể đi qua không bị quấy rối. Cho nên chủ tới sau tớ. Xúc cảm là chủ còn trí năng là tớ. Tất cả những điều có ý nghĩa và đẹp đẽ trong cuộc sống đều tuôn chảy từ xúc cảm, từ cảm giác. Nhưng có những người coi người dẫn đường là thống đốc và cúi chào ông ta. Họ nói, "Chúng tôi là những nhà trí thức, chúng tôi coi người dẫn đường là thống đốc." Cứ để họ nói điều họ thích; ngay cả người dẫn đường cũng cười.
Một số người nghĩ chỉ người yếu mới run lên và la hét; người mạnh là những người thấy khó đi vào trong nó. Họ không biết, họ không biết chút nào. Vấn đề ngược lại; điều đó chỉ xảy ra cho người mạnh, trong khi người yếu đứng sang bên. Bởi vì ở vào một tư thế đặc biệt trong suốt một giờ chỉ có thể dành cho những người có ý chí rất mạnh, không dành cho kẻ có ý chí yếu. Người yếu thở sâu được một hai phút thôi, rồi họ từ bỏ. Và chính họ là người nói rằng điều đó dành cho người yếu, rằng đó là tính mềm yếu. Họ thậm chí không thể nào thở sâu trong một giờ được; họ không thể hỏi "Tôi là ai?" trong mười phút. Xin đừng che giấu những ảo tưởng như vậy.
Đây chỉ là những biện giải, cách thức trí năng trốn chạy khỏi thiền. Đây là cách chúng ta bảo vệ bản ngã của mình và chạy trốn. Cho nên chúng ta nói điều đó chỉ xảy ra cho người yếu, trong khi chúng ta là những người rất mạnh. Đây là phát biểu đáng ngạc nhiên. Sự thực là ở chỗ mọi thứ lớn lao và có ý nghĩa trong thế giới này đều đạt được bởi người mạnh; người yếu chẳng tốt cho cái gì cả. Và thiền thì sao? Thiền đòi hỏi sức mạnh tối thượng. Cái gọi là người trí thức sẽ nói rằng chỉ người yếu mới trải qua những kinh nghiệm này. Còn bản thân người đó không thể làm được điều đó bởi vì người ngồi cạnh người đó đang khóc; bởi vì người này mà người đó không làm được. Nhưng người đang khóc kia thậm chí không ý thức tới điều đó, người này thậm chí không nhận biết liệu có ai đang quan sát mình và nghĩ về mình không. Người này hoàn toàn tham gia vào nỗ lực riêng của mình. Và tham dự với sự kiên trì là một điều mang sức mạnh lớn lao; người yếu không thể có được điều đó.
Do đó đừng cố bảo vệ bản ngã của bạn chẳng vì cái gì cả. Và đừng nói bạn là mạnh, là có ý chí mạnh và rằng bạn là nhà trí thức và ngừng làm điều đó. Biết rõ điều này - rằng bạn không thể làm được điều đó - và đừng tìm cớ để không làm gì, và đừng trang điểm cho cái yếu của bạn bằng những lời hay. Nếu bạn làm vinh quang cho cái yếu của mình, điều đó sẽ trở thành một thứ quí chuộng cho bạn, và thế thì bạn sẽ bỏ lỡ thiền mãi mãi. Đơn giản biết rằng điều này không xảy ra cho bạn. Nếu nó không xảy ra, điều đó đơn giản nghĩa là bạn yếu và bạn thiếu cái gì đó. Cố gắng tìm ra và hiểu cái yếu của bạn và chữa trị nó đi. Đừng nhận lầm cái yếu của bạn thành cái mạnh; đừng cho nó cái tên mĩ miều.
Một người bạn tới và nói rằng dường như tất cả đều mắc chứng cuồng loạn rồi, dường như vài người bị bệnh kích động. Anh ta không biết chút nào cái gì đang ẩn kín trong thái bình của cuộc sống. Bằng việc gọi nó là chứng cuồng loạn anh ta chỉ bảo vệ cho bản ngã của mình. Cho nên anh ta đã đi tới kết luận rằng những người rung lắc và la hét là những người điên. Và anh ta nghĩ bản thân mình không thể trải qua những kinh nghiệm như vậy bởi vì anh ta lành mạnh. Nhưng nếu anh ta là phải thì Phật là điên và Mahavira và Jesus và Socrates và Rumi và Mansoor cũng vậy. Nhưng gia nhập vào bộ lạc của những người điên được phúc lạc này còn tốt hơn rất nhiều vẫn còn ở với cái gọi là người lành mạnh. Và chúng ta đang gia nhập với họ, bởi vì điều những người điên này đã có, thì những người lành mạnh kia không bao giờ có thể có được.
Khi năng lượng dâng lên với cường độ mạnh, nó dấy lên cơn bão thực sự bên trong bạn. Điều đó không phải là không lành mạnh. Nếu nó là vậy, chúng ta không thể nào tĩnh lặng và yên tĩnh trở lại được. Và chúng ta trở nên tĩnh lặng và yên tĩnh sau khi hoàn thành ba giai đoạn này, điều có nghĩa là không có gì cuồng loạn về nó cả. Thử yêu cầu một người đang cuồng loạn hãy thảnh thơi, hãy yên tĩnh mà xem; người đó không thể làm được như vậy; điều đó đơn giản không trong tay người đó. Nhưng bất kì điều gì đang xảy ra ở đây đều trong kiểm soát của chúng ta; nó xảy ra bởi vì chúng ta giúp cho nó xảy ra, bởi vì chúng ta hợp tác với nó. Đó là lí do tại sao khoảnh khắc chúng ta rút sự hợp tác của chúng ta đi nó lập tức đi tới chấm dứt.
Chỉ có một tiêu chuẩn để biết lành mạnh từ không lành mạnh. Người là người chủ riêng của mình là lành mạnh còn người không là người chủ của mình là không lành mạnh. Bây giờ đây là một tiêu chí rất thú vị. Khi tôi yêu cầu những người ở đây, những người đang trải qua những kinh nghiệm như vậy hãy thảnh thơi và yên tĩnh, họ lập tức làm như vậy. Nhưng nếu tôi yêu cầu cái gọi là người lành mạnh, người cũng ở đây, hãy tĩnh lặng và làm yên tĩnh ý nghĩ của họ, thì họ sẽ nói không thể nào làm được điều như vậy - dù họ có cố gắng thế nào, họ vẫn không thể làm yên tĩnh các ý nghĩ của họ được. Cho nên chính họ mới là người không lành mạnh, người điên. Điều bạn không thể điều khiển được là cái không lành mạnh còn điều bạn có thể điều khiển được là lành mạnh, là mạnh khoẻ.
Khi bạn sẽ có khả năng bật hay tắt tâm trí mình theo ý muốn, khi bạn sẽ nói "Thôi đủ rồi", và tâm trí sẽ dừng lại đây đó, chỉ thế thì bạn mới có thể cho rằng mình lành mạnh, rằng bạn mạnh khoẻ. Nhưng thực tế là điều ngược lại. Bạn nói "Thôi đủ rồi" còn tâm trí bạn nói, "Cứ nói điều gì cậu có thể nói đi, nhưng tớ sẽ làm điều tớ muốn, tớ sẽ đi tới nơi tớ muốn đi." Bạn đi lên trời và xuống đất để làm yên tĩnh các ý nghĩ của mình, nhưng chúng đơn giản không nghe lời, chúng đi theo đường của chúng. Bạn ngồi trong đền tụng bài thánh ca ca ngợi Thượng đế còn tâm trí bạn đồng thời đang xem bộ phim trong rạp chiếu bóng. Không, bất kì bhajans của bạn và lời cầu nguyện của bạn không thể nào dừng được tâm trí khỏi việc xem phim. Nó không cho đến một hào với mọi lời cầu xin của bạn.
Nhưng con người rất tinh ranh. Con người che giấu những cái yếu của mình đằng sau những lời lẽ hoa mĩ, và cảm thấy thoải mái bằng việc gièm pha cái tốt của người khác, bằng việc gọi các cái tên. Nhận biết về điều này. Tốt nhất là không nghĩ về điều đó chút nào cả. Ai đang trải qua cái gì là rất khó biết. Cuộc sống bí ẩn đến mức tốt hơn cả là đừng nghĩ về người khác. Nếu bạn có thể nghĩ và chăm nom cho chính mình là đủ rồi. Thử nghĩ về điều này thôi - dù bạn không lành mạnh, yếu hay mạnh - và chỉ nghĩ về bản thân mình. Nhưng chúng ta bao giờ cũng làm điều ngược lại, chúng ta nghĩ về người khác. Điều này rất sai.
Như tôi đã nói, việc buông bỏ thân thể trước hết dẫn tới việc thanh tâm các căng thẳng bị kìm nén và làm tan biến các khối chắn và phức cảm thân thể. Và điều thứ hai, khi thân thể tự nó chuyển động - bạn không thao tác nó, thay vì thế nó thao tác theo đà riêng của nó - thế thì việc tách biệt của nó với bạn, với linh hồn trở thành rõ ràng. Bởi vì khi bạn thấy rằng thân thể bây giờ xoay tròn, rằng nó bây giờ dừng lại, rằng tay đang rung - không phải là bạn rung chúng, thay vì thế chúng rung theo cách của chúng - thế thì bạn lần đầu tiên biết rằng bản thể bạn và thân thể bạn là khác nhau và tách rời. Thế thì bạn cũng sẽ biết rằng nó không phải là bạn, nhưng thân thể bạn đã trở thành trẻ trung; và lần nữa nó không phải là bạn, nhưng thân thể đang trở nên già đi. Và nếu nhận biết này sâu sắc lên thì bạn cũng sẽ biết rằng bạn sẽ không chết; chỉ thân thể sẽ chết.
Khi thân thể quay như cái máy, bạn sẽ biết trong chiều sâu, rằng thân thể thực sự tách rời với bạn. Điều này bạn chỉ biết khi bạn tuyệt đối buông bỏ thân thể.
Và trong giai đoạn thứ ba chúng ta hỏi: "Tôi là ai?" Ngay cả khi một người biết rằng mình không là thân thể, ngay cả khi một người biết rằng mình không là hơi thở, thì người ta vẫn không biết mình là ai. Chính việc biết mang tính phủ định là về việc người ta không là thân thể, việc người ta không là hơi thở; điều đó không mang tính khẳng định. Việc biết có tính khẳng định là gì? Đó là việc biết mình là ai, điều người đó chưa được biết. Cho nên trong giai đoạn thứ ba chúng ta hỏi: "Tôi là ai?" Nhưng chúng ta hỏi ai? Chúng ta hướng trực tiếp câu hỏi này vào bản thân mình, và không vào ai khác. Chúng ta làm cho mình ngập lụt hoàn toàn với câu hỏi này "Tôi là ai?" Cái ngày bạn sẽ được chất đầy tuyệt đối bằng câu hỏi này sẽ tới, và nó sẽ tới từ bên trong bạn. Bởi vì không thể có chuyện tại mức bên trong nhất của mình, bạn không biết mình là ai. Nếu bạn hiện hữu, bạn cũng biết mình là ai.
Nhưng cần lấy câu hỏi này vào chiều sâu bên trong nhất. Chẳng hạn, có nước trong đất, và chúng ta khát ở đây đang ngồi trên mặt đất. Nếu chúng ta muốn làm dịu cơn khát của mình, sẽ cần đào giếng sâu quãng mười mét tới nơi có nước. Nếu chúng ta có câu hỏi "Tôi là ai?'', thì câu trả lời của nó nằm ở đâu đó mười mét sâu trong chúng ta. Nhưng có nhiều tầng giữa chúng ta và câu trả lời đó, và những tầng này phải bị loại bỏ để đạt tới câu trả lời. Cho nên câu hỏi "Tôi là ai?" có tác dụng như cái mai. Tốc độ và lực mà chúng ta hỏi câu hỏi này càng lớn, chúng ta đào chiếc giếng càng sâu. Nhưng chúng ta không hỏi với tốc độ và lực đó.
Nhiều lần những điều rất lạ xảy ra. Một người bạn đã trải qua một kinh nghiệm phi thường trong buổi thiền sáng trong hai ngày qua. Và điều đó cũng đáng hiểu. Người đó hỏi câu hỏi này với tất cả sức mạnh của mình, và người đó làm việc cật lực. Không có gì thiếu trong nỗ lực của người đó. Và người đó cũng không thiếu về ý chí. Nhưng, như tôi đã nói, tâm trí có hết tầng nọ tới tầng kia. Người đó hỏi từ tầng trên "Tôi là ai?", và người đó hỏi nó với lực mạnh đến mức người đó thốt ra câu hỏi này "Tôi là ai?" nhiều lần. Nhưng ở giữa việc lặp lại câu hỏi này, các câu hỏi khác bật ra: "Nó sẽ có tác dụng gì? Nó sẽ có tác dụng gì?" gợi ý rằng việc hỏi này sẽ không làm ra điều gì cả. Ai đang hỏi câu hỏi thứ hai này? Bạn hỏi "Tôi là ai?" nhưng thế rồi người đó là ai, người hỏi "Nó sẽ có tác dụng gì?" Đó là một tầng khác của tâm trí riêng của bạn, nơi nói, "Việc hỏi này sẽ chẳng có tác dụng đâu, mình cứ hỏi một cách vô ích nó lặp đi lặp lại mãi; tốt hơn cả là giữ yên tĩnh."
Cho nên trong khi tầng này của tâm trí chúng ta hỏi "Tôi là ai?" thì tầng khác bước ra với lời bắt bẻ, "Điều này chẳng có tác dụng đâu, tốt hơn cả là giữ yên tĩnh."
Nếu tâm trí bạn vẫn còn bị phân mảnh, bạn sẽ không thể đi được rất sâu. Đó là lí do tại sao tôi yêu cầu bạn mang tất cả năng lượng của mình vào việc hỏi "Tôi là ai?" để cho dần dần toàn thể tâm trí bạn được tham dự vào trong nó và bạn hỏi với tâm trí toàn bộ "Tôi là ai?" Và khi chỉ mỗi câu hỏi này còn lại, không cái gì khác ngoài câu hỏi này, nó sẽ chìm vào trong bạn như mũi tên và câu trả lời sẽ tới. Thế thì câu trả lời này sẽ không tới chậm cho dù là một giây.
Câu trả lời là ở bên trong chúng ta.
Tri thức ở bên trong, nhưng chúng ta chưa bao giờ cầu khẩn nó, chúng ta chưa bao giờ khêu gợi nó, đánh thức nó. Nó bao giờ cũng được chuẩn bị để thức dậy. Ba giai đoạn này được ngụ ý cho ý định này. Nhưng những giai đoạn này giống như các bậc lên ngôi đền của thiền; chúng ở bên ngoài nó. Chúng đưa các bạn tới cổng và để các bạn lại đó. Việc vào qua cánh cổng này xảy ra ở giai đoạn thứ tư. Nhưng người không trèo qua ba bậc này không thể hi vọng đi vào được giai đoạn thứ tư - cánh cổng. Cho nên nhớ lấy, điều bản chất là bạn đầu tư tất cả năng lượng của mình vào buổi thiền ngày mai, vì nó sẽ là ngày cuối cùng của trại này. Đem tất cả năng lượng của bạn vào ba giai đoạn này. Nếu bạn làm như vậy, giai đoạn thứ tư sẽ xảy ra theo cách riêng của nó. Bạn sẽ không phải làm giai đoạn thứ tư, nó sẽ xảy ra.
Ba giai đoạn bạn sẽ làm, giai đoạn thứ tư sẽ xảy ra.
Một phụ nữ hỏi: với việc đạt tới giai đoạn thứ tư thì ba giai đoạn đầu sẽ bị bỏ đi chứ?
Thế thì không có câu hỏi. Nếu giai đoạn thứ tư được đạt tới, thế thì không có câu hỏi. Thế thì người ta sẽ tự thấy cho mình bất kì cái gì cần được làm. Nếu nhu cầu được cảm thấy thì người đó sẽ tiếp tục làm nó; bằng không nó sẽ dừng lại. Nhưng cho dù điều này thì sự việc cũng không thể được nói trước. Nó không thể được nói trước, bởi vì nếu chúng ta nêu ra câu hỏi này trước khi giai đoạn thứ tư đã thực tế được đạt tới, điều đó nghĩa là chúng ta không muốn làm ba giai đoạn này và do vậy chúng ta đang cố gắng trốn chúng. Các bạn dường như lo lắng để loại bỏ những điều này hơn, và đó là lí do tại sao tôi không định nói rằng chúng sẽ bị bỏ đi. Bởi vì nếu tôi nói điều đó, các bạn sẽ không đi với chúng chút nào, các bạn sẽ vứt bỏ chúng ngay bây giờ. Chúng sẽ bị bỏ đi, nhưng đó là vấn đề phải tới sau khi giai đoạn thứ tư đã được đạt tới. Nó không nên được nêu ra từ trước.
Tâm trí chúng ta lừa dối chúng ta theo nhiều cách. Khi bạn hỏi câu hỏi này bạn không nhận biết tại sao bạn hỏi nó. Bạn hỏi nó với động cơ để gạt bỏ ba giai đoạn này. Nhưng nếu bạn gạt bỏ những giai đoạn này, biết rõ rằng giai đoạn thứ tư sẽ không bao giờ xảy ra cả. Nhưng tại sao có nỗi sợ ba giai đoạn này?
Nỗi sợ có đó. Và những giai đoạn này được ngụ ý để chùi sạch nỗi sợ này.
Nỗi sợ là ở chỗ thân thể có thể làm bất kì điều gì, và có những điều bạn không muốn nó làm. Nhưng nó có thể làm được gì? Bạn có thể nhảy múa, bạn có thể kêu khóc, bạn có thể la hét, bạn có thể lăn lộn ngã ra. Nhưng khó khăn cho tất cả những điều này là gì? Bạn thở sâu ở giai đoạn thứ nhất, và trong giai đoạn thứ hai bạn tiếp tục thở và buông bỏ thân thể. Đáng phải không có bất kì cái gì khó khăn trong việc thở sâu và nhanh và việc buông bỏ thân thể. Bạn không phải làm nỗ lực gì để nhảy múa; nếu bạn nhảy múa, nó sẽ ngăn cản việc thở sâu. Nhưng nếu nhảy múa xảy ra theo cách riêng của nó, thì được. Bất kì cái gì xảy ra, cứ để cho xảy ra.
Khó khăn của chúng ta là ở chỗ hoặc chúng ta làm một điều hoặc chúng ta chống lại nó; chúng ta không cho phép cái gì xảy ra theo cách riêng của nó. Chúng ta sẵn sàng làm bất kì cái gì; chúng ta sẽ hoặc nhảy múa hoặc ngăn cản nó. Nhưng chúng ta sẽ không buông bỏ cái gì, chúng ta sẽ không cho phép nó xảy ra một cách tự phát. Toàn thể nền văn minh của con người đều mang tính đàn áp. Chúng ta đã đàn áp nhiều điều bên trong mình, và chúng ta sợ việc mở cái hộp Pandora. Chúng ta thực sự sợ hãi; chúng ta dường như ngồi trên núi lửa. Chúng ta bị đè lên bởi nhiều nỗi sợ; không chỉ là vấn đề nhảy múa. Nỗi sợ bắt rễ sâu.
Chúng ta đã kìm nén bản thân mình vô cùng, và chúng ta cũng biết cái gì có thể thoát ra từ tầng ngầm của tâm trí chúng ta. Đứa con muốn giết bố nó, và nó sợ rằng ý nghĩ này có thể trồi lên bề mặt. Người chồng đã nghĩ tới việc bóp nghẹt cổ vợ, mặc dầu đồng thời anh ta nói với cô ấy rằng anh ta không thể sống nổi nếu thiếu cô ấy cho dù một khoảnh khắc. Ham muốn giết vợ này bị kìm nén trong tâm trí anh ta, và anh ta sợ nó có thể bùng phát vào bất kì lúc nào.
Gurdjieff là một nhà huyền môn và ông ấy là một trong những người xuất sắc nhất của thời đại chúng ta. Bất kì khi nào một người tới với ông ấy để hỏi về hướng dẫn tâm linh, điều đầu tiên ông ấy làm là làm cho người này say dài hàng ngày trong mười lăm ngày và nghiên cứu người đó trong trạng thái ngất ngây say của người đó. Và chừng nào ông ấy còn chưa nghiên cứu người này trong trạng thái ngất ngây say thì ông ấy còn chưa điểm đạo cho người này vào sadhana hay bộ môn tâm linh. Ông ấy sẽ làm cho người này say sưa mọi ngày để cho tất cả mọi chứng thần kinh bị kìm nén của người đó bị lộ tẩy ra trước ông ấy và ông ấy biết người này thuộc kiểu người nào và người này đã kìm nén cái gì trong vô thức của mình. Chỉ thế thì ông ấy mới gợi ý sadhana cần thiết - điều ông ấy gọi là Công việc - cho người này. Nếu người này từ chối uống rượu với ông ấy trong mười lăm ngày, Gurdjieff lập tức sẽ yêu cầu người này về nhà. Có lẽ không Thầy nào trên thế giới đã dùng việc uống rượu theo cách này. Nhưng ông ấy là người rất thông minh và khôn ngoan, và hiểu biết của ông ấy về con người là rất sâu và có giá trị. Bởi vì chúng ta đã kìm nén quá nhiều rồi, không có chỗ chấm dứt cho việc kìm nén của chúng ta. Và chúng là trong tính toán.
Chính bởi vì những kìm nén này mà chúng ta sợ hãi; chúng ta sợ sự phơi bày của chúng. Chúng ta sợ chúng ta sẽ nói ra điều gì đó mà chúng ta không muốn nói, mà chúng ta không muốn người khác biết. Bây giờ nếu ai đó phạm tội trộm cắp, rất có thể là khi người đó hỏi "Tôi là ai?" người đó có thể buột mồm nói ra mình là kẻ trộm, kẻ lừa đảo, kẻ chợ đen. Cho nên người đó sợ việc hỏi câu hỏi "Tôi là ai?" Và cho dù người đó có hỏi điều đó thì người đó làm việc này theo tiếng nói yếu ớt, bởi vì người đó biết rằng mình là kẻ trộm. Người đó sợ và do vậy người đó kìm nén câu hỏi này. Người đó không muốn người ngồi bên cạnh mình nghe thấy nó nếu người đó thốt ra rằng mình là kẻ trộm. Và người đó có thể buột mồm lắm chứ, chẳng có khó khăn gì mấy về điều đó cả. Cho nên có những lí do tốt cho chúng ta hỏi liệu ba giai đoạn đầu này có thể được bỏ đi không và liệu chúng ta có thể làm mà không có chúng không.
Nhưng không, các bạn sẽ phải trải qua những giai đoạn này. Chúng có thể bị bỏ đi, nhưng chỉ sau khi các bạn đã làm chúng một cách kĩ lưỡng. Và bất kì điều gì đi ra từ bên trong các bạn cũng nên được phép tự do đi ra; đừng cản trở nó. Bất kì lời nói tục tĩu nào ẩn ở đó; nó sẽ trồi lên bề mặt và làm thanh tâm.
Những mặt nạ mà chúng ta đeo không phải là khuôn mặt thật của chúng ta; đó là lí do tại sao chúng ta sợ bị ảnh hưởng mạnh thế. Bây giờ một người đã tô điểm lên khuôn mặt mình đầy những kem, son và phấn; người đó sẽ rất sợ phải vứt bỏ son phấn của mình. Nếu người đó làm như vậy, khuôn mặt thật của người đó, xấu xí và gớm ghiếc, sẽ lộ tẩy bản thân nó. Và người đó sợ rằng người khác sẽ thấy khuôn mặt thật của mình. Người đó đã rất chú ý, đứng trước tấm gương lớn, để cho mình làn da mặt căng đẹp. Cho nên người đó hoảng hốt rằng nếu người đó từ bỏ nó, khuôn mặt mình có thể trở thành kinh khủng tới mức không cách hoá trang nào giúp được mình. Người đó sẽ nói mình có thể vứt bỏ mọi thứ nhưng không bỏ được cái vẻ ngoài của mình, việc hoá trang của mình. Người đó sẽ cố gắng cứu lấy nó bằng mọi giá. Tất cả các khuôn mặt của chúng ta đều được hoá trang và giả tạo; chúng không thật. Và đừng nghĩ rằng những người không dùng mĩ phẩm trang điểm thì không hoá trang cho khuôn mặt họ. Có đủ mọi loại hoá trang, và cách hoá trang nào đó là tinh vi tới mức nó chẳng cần đồ mĩ phẩm.
Chính bởi lí do này mà các bạn sợ, rằng nếu các bạn buông bỏ bản thân mình trong thiền, mặt nạ của bạn có thể rơi ra làm phô bầy khuôn mặt thật của bạn, và rằng ai đó có thể nhìn thấy nó.
Nhưng những nỗi sợ này là nguy hiểm, và chúng sẽ không cho phép bạn đi vào bên trong. Cho nên chúng phải bị vứt bỏ.
Một câu hỏi cuối cùng.
Một bạn hỏi: Shaktipat hay việc truyền năng lượng là gì? Và liệu có khả năng rằng một ai đó có thể truyền năng lượng thiêng liêng không?
Không ai có thể làm shaktipat được, không ai có thể truyền năng lượng được; nhưng ai đó có thể là phương tiện cho việc truyền như vậy. Đúng là không ai có thể làm được điều đó. Và nếu ai đó tuyên bố rằng người đó có thể làm được việc đó, người đó đang đam mê lừa dối tuyệt đối. Không ai có thể làm được điều đó, và dầu vậy trong khoảnh khắc nào đó việc truyền năng lượng có thể xảy ra qua ai đó. Nếu ai đó này hoàn toàn trống rỗng và buông xuôi, shaktipat có thể xảy ra trong sự hiện diện của người đó. Người đó có thể làm việc như chất dẫn, như tác nhân xúc tác, không có chủ tâm. Qua người đó năng lượng vô hạn của Thượng đế có thể đi vào người khác.
Không ai có thể là tác nhân xúc tác một cách có chủ tâm, bởi vì điều kiện đầu tiên để hành động như chất dẫn là ở chỗ bạn phải không biết nó, ở chỗ bạn không có bản ngã. Bản ngã làm cho người ta không đủ tư cách là người trung gian cho shaktipat. Với bản ngã người ta trở thành người không có khả năng truyền dẫn năng lượng; năng lượng thiêng liêng không thể tuôn chảy qua người đó. Cho nên nếu có một người với bản ngã đã hoàn toàn bị lau sạch, người tuyệt đối trống rỗng bên trong và là hư không toàn bộ, người không làm gì cho bạn cả, thực sự người không làm đến một việc - thì qua trống rỗng của người đó, qua hư không của người đó, cái hoạt động như lối đi, năng lượng của Thượng đế chắc chắn có thể đạt tới bạn. Và tốc độ của nó có thể rất nhanh. Nhớ điều này khi bạn tới đây cho việc thiền ngày mai.
Với điều này tôi cũng cho các bạn vài thông tin về ngày mai.
Shaktipat nghĩa là năng lượng của Thượng đế đã giáng lên bạn. Nó có thể có theo hai cách. Hoặc là nó nảy sinh từ bạn và nối với năng lượng của Thượng đế hoặc nó tuôn chảy từ Thượng đế và nối với bạn. Đó là cùng một điều được xem xét từ hai phía; hay đây là hai cách nhìn vào cùng một điều. Chẳng hạn, có một cốc vại nước đầy một nửa. Ai đó có thể nói rằng nó được rót đầy một nửa và người khác có thể nói rằng nó rỗng một nửa. Và nếu họ là các triết gia, họ có thể tranh luận về điều đó vô tận và chẳng đi tới kết luận nào, bởi vì cả hai phát biểu đều đúng. Năng lượng giáng xuống từ trên và nó có thể thăng lên từ phía dưới nữa. Và khi hai năng lượng này gặp nhau, khi năng lượng tiềm tàng của bạn gặp với năng lượng của cái vô hạn - bùng nổ xảy ra.
Bùng nổ này là không thể tiên đoán được; mà cũng không thể nói được bùng nổ này làm cái gì. Và điều gì xảy ra sau bùng nổ này, điều này nữa cũng không thể được nói ra. Trong suốt lịch sử, những người đã được ân huệ với bùng nổ năng lượng này đều đã kêu lên từ mái nhà: "Lại đây, tất cả lại đây, và đi qua bùng nổ này và tự mình thấy nó là gì. Cái gì đó đã xảy ra ở đây, cái đơn giản không thể diễn đạt nổi, hoàn toàn không mô tả được."
Shaktipat nghĩa là việc giáng xuống của năng lượng từ cõi bên kia. Nó có thể giáng xuống. Thực tế nó giáng xuống mọi ngày. Và năng lượng này chọn phương tiện của nó là một người trống rỗng theo mọi cách, người hoàn toàn vô ngã. Người đó một mình biến thành tác nhân xúc tác của nó, chỉ là phương tiện chứ không là gì khác. Nhưng ngay cả khi một chút ít dấu vết của bản ngã có đó, ngay cả khi người đó nghĩ rằng người đó có thể làm điều đó, người đó dừng là người truyền dẫn. Thế thì năng lượng này không thể tuôn chảy từ người đó.
Bây giờ nhớ trong đầu hai thông tin cho buổi thiền ngày mai, cả hai buổi thiền sáng và giữa ngày. Ngày mai là ngày cuối cùng của trại, và nó sẽ đầy các khả năng. Cho nên các bạn phải được tràn đầy hi vọng và tin cậy mênh mông khi các bạn làm việc thiền ngày mai.
Thứ nhất, tất cả những người có loại kinh nghiệm nào đó ở đây sẽ làm việc thiền đứng. Nếu bất kì điều gì đã xảy ra cho các bạn, cho dù chút ít đã xảy ra cho thân thể các bạn, các bạn sẽ làm tốt việc đứng sáng mai và thiền. Bởi vì các chuyển động ở tư thế đứng có thể nhanh nhất và mạnh nhất nữa. Trong tư thế đứng luồng năng lượng ở tại chỗ cao nhất của nó.
Cho tới nay tôi đã không yêu cầu các bạn đứng bởi vì các bạn thiếu dũng cảm ngay cả cho việc làm nó khi ngồi. Bây giờ nếu các bạn làm nó khi đứng, tác động của năng lượng lên các bạn sẽ nhiều lắm. Như tôi đã nói rằng các bạn có thể bùng vào điệu vũ, điệu vũ điên khùng, điều đó thực sự có thể xảy ra khi bạn làm nó mà đứng. Vì mai sẽ là ngày cuối cùng, và mười cho tới hai mươi bạn đã đạt tới chiều sâu tốt trong thiền, nên đặc biệt họ sẽ chắc chắn đứng dậy. Tôi không định nêu tên họ; họ nên làm điều đó theo cách riêng của mình. Và nó phải là như vậy ngay từ đầu buổi thiền. Tất nhiên, người ta có thể đứng bất kì lúc nào nếu người ta cảm thấy thích làm như vậy. Và nhớ rằng bạn phải cho phép mọi thứ xảy ra không bị cản trở.
Và vài lời cho phiên giữa ngày của việc thiền im lặng.
Khi chúng ta ngồi đây cho việc thiền im lặng ngày mai thì phải có đủ chỗ trống gần tôi. Và khi các bạn tới tôi từng người một và ngồi bên tôi, và khi tôi đặt tay lên đầu bạn, thế thì cho phép mọi thứ xảy ra cho bạn vào khoảnh khắc đó. Nếu bạn la hét và tay bạn và chân bạn rung lên hay bạn ngã ra hay vươn dậy, bất kì nó là gì, cứ để cho nó tự do, đừng kháng cự lại chút nào. Nó sẽ giống như điều chúng ta làm trong việc thiền sáng: Buông bỏ. Cho nên để đủ không gian gần tôi.
Và những người có thể tập trung lòng dũng cảm sẽ làm việc thiền sáng tất cả đều ở tư thế đứng. Trước khi tôi tới, các bạn nên lấy sẵn tư thế cho mình và đứng yên tĩnh. Và đứng thẳng không dựa vào cái gì, chẳng hạn như cây gần bạn. Không nâng đỡ, dù là bất kì cái gì; đứng theo cách riêng của bạn.
Các bạn muốn biết về shaktipat. Tư thế đứng này sẽ tạo ra tình huống tốt cho việc truyền năng lượng. Bầu không khí rất truyền dẫn đã đi vào hiện hữu ở đây và nó có thể được sử dụng hoàn toàn. Và vì sắp là ngày cuối cùng của trại này, nên các bạn phải đem toàn thể ý chí và năng lượng vào vở kịch ngày mai.
Một bạn khác hỏi: Vừa rồi thầy đã nói về ba giai đoạn. Thầy có thể giải thích chúng có tác động nào lên trạng thái của thân thể, tim, não và tâm trí?
Tác động sẽ có nhiều.
(Một giọng nói) chúng có gây ra đau tim không?
Sẽ là tốt nếu đau tim. Chẳng cái gì giống như nó. Đó là điều được mong muốn. Cứ để tim bị đau. Dù bạn có cố gắng đến đâu để cứu nó, thì nó cũng sẽ hỏng một ngày nào đó. Cho nên vì sao cứu nó? Buông bỏ nó đi. Ít nhất bạn sẽ thoả mãn rằng nó đã hỏng trong khi nó đang trên đường tới Thượng đế. Thế là đủ.
Người bạn này muốn biết ba giai đoạn này sẽ có tác động nào lên chúng ta. Chúng sẽ có nhiều tác động. Việc thực hành thiền, cách thiền mà tôi dạy, sẽ có nhiều kết quả sinh lí học. Nhiều bệnh thể chất có thể biến mất, sống lâu có thể tăng lên và nhiều thay đổi hoá học có thể xảy ra trong thân thể. Nhiều tuyến của thân thể vào khoảnh khắc đó hầu như chết rồi, có thể được kích hoạt.
Chúng ta không có ý tưởng các nhà tâm lí học bây giờ nói gì, ngay cả các nhà sinh lí học nói, về giận dữ. Khi người ta giận dữ, họ nói, một loại chất độc đặc biệt được tiết ra từ thân thể. Nhưng mãi cho tới nay họ vẫn không thể biết được cái gì xảy ra trong trường hợp yêu. Như trong giận dữ, một loại chất độc đặc biệt được tiết ra, trong yêu một loại cam lồ đặc biệt được tiết ra trong thân thể. Nhưng bởi vì yêu là hiện tượng hiếm hoi trong thế giới chúng ta, vậy mà người đang yêu phải đi tới phòng thí nghiệm của nhà khoa học. Đó là lí do tại sao nhà khoa học đã không thể phát hiện được ra nó. Nếu thiền có tác động đầy đủ của nó, thì thân thể bắt đầu tiết ra chất cam lồ hay mật ong biểu tượng cho bất tử.
Thiền thực sự có tác động hoá học sâu lên thân thể. Những người đi sâu vào thiền bắt đầu thấy mầu sắc phi thường, ngửi thấy mùi thơm khác thường và nghe thấy những âm thanh chưa từng nghe thấy. Những đợt sóng ánh sáng và âm thanh phi thường bắt đầu tuôn chảy qua họ. Đây tất cả đều là những tác động hoá học của thiền. Các bạn sẽ thấy những màu sắc dị thường mà các bạn chưa bao giờ thấy. Thực tế, toàn thể hoá học của thân thể trải qua thay đổi lớn lao. Thân thể bắt đầu cảm nhận, suy nghĩ và hiểu mọi thứ theo một cách khác. Tất cả mạch điện của thân thể đều thay đổi.
Cũng như rất nhiều điều xảy ra ở mức độ thân thể, rất nhiều điều xảy ra ở mức độ của tâm trí nữa. Nhưng đây là vấn đề chi tiết, và tôi sẽ nói riêng cho người hỏi về nó.
Các khả năng là rất lớn.
Câu hỏi khác: cái gì là tác động của thở sâu lên não, tim v.v..?
Ngay khi các bạn bắt đầu thở sâu, tỉ lệ ô xi và cacbonic trong thân thể sẽ thay đổi. Có một khối lượng cacbonic và ô xi trong thân thể chúng ta; thở sâu sẽ làm thay đổi tỉ lệ của nó. Và ngay khi tỉ lệ này thay đổi, những thay đổi hệ quả xảy ra trong toàn bộ thân thể kể cả não, máu và hệ thần kinh. Tỉ lệ của ô xi và các bô nic nói riêng tạo nên toàn thể cơ sở của sự tồn tại của chúng ta. Và thay đổi trong tỉ lệ của chúng làm thay đổi mọi thứ. Nhưng đó là vấn đề kĩ thuật và người hỏi có thể gặp riêng tôi về sau để thảo luận về nó, bởi vì mọi người có thể không quan tâm tới điều đó.
Một bạn khác hỏi: Có phải vấn đề thiền là một với tự thôi miên không?
Việc thiền này thống nhất với tự thôi miên tới mức độ lớn, nhưng tại điểm cuối cùng thì nó chia thành bạn bè. Nó được móc nối phần lớn với thôi miên; ba giai đoạn đầu của nó, ngoại trừ phần chứng kiến của nó, thuộc vào thôi miên. Việc chứng kiến, cần tới trong toàn bộ thực hành của nó, nhận biết về phần của thiền nhân rằng hơi thở đi vào và ra, rằng thân thể đang rung lên và quay, rằng người đó là người quan sát trên núi - việc chứng kiến này chẳng có liên quan gì tới thôi miên cả. Đây là khác biệt. Và khác biệt này là cơ bản, cơ sở. Nhưng phần còn lại của nó là quá trình thôi miên.
Quá trình thôi miên là rất có ý nghĩa; được móc nối với chứng kiến, nó trở thành thiền. Nhưng thôi miên bị tách khỏi chứng kiến trở thành vô ý thức. Bạn sẽ trở thành vô ý thức, nếu bạn dùng một mình thôi miên. Và bạn sẽ được thức tỉnh nếu bạn dùng chứng kiến cùng thôi miên. Cho nên khác biệt giữa hai điều này là bao la. Nhưng cách thức của chúng là tương tự tới mức độ lớn; chỉ ở cuối cùng chúng mới tách ra lẫn nhau.
Vài câu hỏi vẫn còn cần được trả lời. Tôi sẽ nêu chúng vào buổi tối mai.
Xin đi vào thiền hôm nay với tràn đầy hi vọng và ý chí vô cùng, và biết rằng bạn sắp thực hiện nó. Biết rằng như mặt trời đã lên và tràn ngập ánh sáng lên mặt đất, ánh sáng riêng của bạn cũng sẽ làm tràn ngập bạn ở bên trong. Như hoa đã nở sáng nay, hoa của phúc lạc cũng nở bên trong bạn. Người bắt đầu cuộc hành hương của mình với hi vọng tràn trề đạt tới mục đích của mình, người đòi hỏi với tất cả khao khát của mình thì đạt tới Thượng đế.
Khá nhiều câu hỏi đã được nhận trong ba ngày qua, tôi muốn hôm nay trả lời ngắn gọn thật nhiều nhất trong số chúng.
Chương 7. Osho hướng dẫn Thiền động (3)
Xin đi vào thiền hôm nay với tràn đầy hi vọng và ý chí vô cùng, và biết rằng bạn sắp thực hiện nó. Biết rằng như mặt trời đã lên và tràn ngập ánh sáng lên mặt đất, ánh sáng riêng của bạn cũng sẽ làm tràn ngập bạn ở bên trong. Như hoa đã nở sáng nay, hoa của phúc lạc cũng nở bên trong bạn. Người bắt đầu cuộc hành hương của mình với hi vọng tràn trề đạt tới mục đích của mình, người đòi hỏi với tất cả khao khát của mình thì đạt tới Thượng đế.
Những người có thể thì nên thiền ở tư thế đứng. Các bạn đang ngồi gần những người đứng sẽ ở chỗ tốt hơn khi dời xa khỏi họ để cho mình không bị tổn thương bởi ai đó ngã lên mình. Đà của hành động là lớn khi nó được thực hiện trong tư thế đứng; toàn thể thân thể sẽ bắt đầu nhảy múa trong cực lạc. Do đó các bạn ngồi gần họ nên dời ra xa, để cho họ có đủ không gian.
Và thu lấy dũng cảm và đem tất năng lượng của bạn vào việc thiền ngày. Đừng để dành lại cái gì.
Giai đoạn thứ nhất
Nhắm mắt lại và bắt đầu thở sâu. Hít vào sâu và thở ra sâu, và quan sát bên trong rằng hơi thở này đi vào và hơi thở khác đi ra. Hít hơi thở sâu vào và tống hơi thở sâu ra... Lấy hơi thở vào sâu và lấy hơi thở ra sâu. Thở sâu, thở sâu, thở sâu. Đem tất cả năng lượng của bạn vào trong nó. Trong mười phút thở thật hết sức - vào và ra. Thở sâu - vào và ra. Thở sâu, thở sâu. Và sử dụng tuyệt đối bản thân mình.
Thở sâu, thở sâu hơn, thở sâu hơn nữa. Và giữ việc quan sát bên trong; vẫn còn là nhân chứng cho từng hơi thở vào và ra. Thở sâu, thở sâu, thở sâu, và giữ việc quan sát, giữ việc chứng kiến. Thấy hơi thở này đang đi vào và hơi thở khác đang đi ra. Và đầu tư tất cả sức mạnh của bạn vào việc thở sâu. Thở sâu, thở sâu hơn và thở còn sâu hơn nữa.
Trong mười phút đem tất cả sức mạnh của bạn vào cuộc chơi. Thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu. Và giữ việc quan sát bên trong rằng hơi thở sâu đi vào và hơi thở sâu khác đi ra. Và dùng hết sức mạnh của bạn trong việc thở. Đừng giữ lại dù chỉ một li của nó. Sử dụng bản thân mình tới mức cực đại. Thở sâu, thở sâu, thở sâu. Để thân thể biến thành một đống năng lượng. Để không cái gì còn lại ngoài việc thở. Để thân thể biến thành điện. Thở sâu, sâu hơn, sâu hơn nữa... Thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu. Không ai nên tụt lại sau; cho nên dùng tất cả năng lượng của bạn vào việc thở. Thở sâu, thở sâu...
Bây giờ chỉ còn lại năm phút, cho nên sử dụng sức tối đa của bạn. Rồi chúng ta sẽ đi vào giai đoạn thứ hai. Thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu. Để thân thể trở thành cái máy, cái máy thở. Cho nên thở sâu, thở sâu hơn, thở sâu hơn nữa. Đem vào cuộc chơi này toàn thể sức mạnh của bạn, không giữ lại cái gì... chỉ việc thở còn lại, chỉ việc thở. Đừng lẩn tránh, đừng kìm lại, đừng giảm bớt nỗ lực; không giữ lại cái gì, đưa vào vận động toàn bộ sức mạnh của bạn. Đem tất cả năng lượng của bạn vào cuộc chơi. Đặt tất cả sức mạnh của bạn vào việc thở. Đem tất cả sức của bạn vào thở sâu.
Đừng lẩn tránh, đừng giảm bớt nỗ lực, đừng tụt lại sau. Để toàn thể bầu không khí được tích điện. Làm hết sức bạn và điều đó sẽ xảy ra. Đầu tư tất cả năng lượng của bạn và bạn sẽ làm ra nó... Thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu. Và sử dụng sức tối đa của bạn... Thấy rằng bạn không làm giảm bớt đà này. Tôi bây giờ ở rất gần các bạn và đang yêu cầu các bạn làm hết sức mình để cho các bạn không phải nói về sau rằng các bạn đã không thể làm được nó. Cho nên đem tất cả năng lượng của bạn vào việc thở nhanh và sâu. Đem tất cả năng lượng của bạn. Đem tất cả năng lượng của bạn. Và thở sâu, thở sâu hơn, thở sâu hơn nữa, thở nhanh và sâu. Bạn thở càng sâu càng dễ đánh thức năng lượng. Thế thì kundalini bắt đầu dâng lên. Thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu. Kundalini sẽ dâng lên, chỉ khi bạn thở nhanh và sâu. Thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu... Năng lượng sẽ thăng lên, bạn chỉ thở nhanh và sâu. Thở sâu, thở sâu, thở sâu.
Bây giờ chỉ còn hai phút để làm nữa thôi, cho nên đi vào nó với toàn thể sức mạnh của bạn. Thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu. Thở sâu nhất có thể được. Chỉ còn lại hai phút thôi, cho nên sử dụng tối đa sức của bạn. Thế rồi chúng ta sẽ chuyển sang giai đoạn thứ hai. Thở sâu, thở sâu... thở sâu... Nếu cái gì đó đang dâng lên bên trong, cứ để nó dâng lên... Bây giờ phút cuối cùng, đem toàn thể sức mạnh của bạn vào trong nó. Rồi chúng ta chuyển qua giai đoạn hai... Thở nhanh và sâu... và làm điều đó với tất cả sức mạnh của bạn. Thở với tất cả sức mạnh của bạn. Năng lượng đang dâng lên bên trong, cho nên đừng để dành cái ta của bạn. Đem tất cả năng lượng của bạn vào trò chơi. Thở sâu, sâu hơn, sâu hơn nữa. Đặt tất cả năng lượng của bạn vào việc thở. Nện bên trong bạn bằng thở nhanh và thở sâu, và năng lượng sẽ bắt đầu thức dậy. Thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, và thở sâu. Bây giờ chúng ta sắp đi vào giai đoạn thứ hai. Cho nên thở sâu, thở sâu hơn và thở sâu hơn nữa. Tôi đang bảo từng người các bạn trực tiếp đầu tư toàn bộ năng lượng của mình vào việc thở. Thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu.
Bây giờ sang giai đoạn thứ hai.
Giai đoạn thứ hai
Tiếp tục thở sâu, và buông bỏ thân thể. Bất kì điều gì xảy ra cho thân thể, cứ để nó xảy ra. Nếu nó khóc, để cho nó khóc. Nếu nó cười, cho phép nó. Nếu nó nhảy múa, để nó tự do nhảy múa. Cho phép mọi thứ xảy ra cho thân thể. Buông bỏ nó. Đừng kháng cự lại. Đừng can thiệp. Để thân thể một mình... Để thân thể một mình. Cho phép mọi điều xảy ra cho thân thể. Buông bỏ nó hoàn toàn. Cho phép bất kì điều gì xảy ra cho các chi của thân thể; buông bỏ chúng. Buông bỏ thân thể. Bất kì điều gì xảy ra cho thân thể trong mười phút này, để cho nó xảy ra không bị cản trở... buông bỏ thân thể. Buông bỏ thân thể hoàn toàn. Nó sẽ nhảy múa. Nó sẽ nhảy nhót. Cho phép mọi điều xảy ra cho nó theo cách riêng của nó. Nếu năng lượng bên trong dâng lên, thân thể sẽ diễn đạt điều đó qua việc nhảy múa, nhảy nhót... cho phép nó làm như vậy. Buông bỏ thân thể tuyệt đối. Buông bỏ là từ khoá.
Buông bỏ thân thể, và tiếp tục thở sâu. Khi năng lượng bên trong dâng lên, thân thể sẽ nhảy múa, nhảy nhót và run rẩy; cho phép mọi thứ xảy ra cho nó. Thân thể sẽ lăn lộn trên đất, nó sẽ la hét và gào thét; đừng chống lại. Buông bỏ. Buông bỏ thân thể hoàn toàn để cho bạn thấy nó tách rời với bạn. Buông bỏ thân thể; buông bỏ thân thể tuyệt đối. Để thân thể cho chính nó. Buông bỏ nó hoàn toàn. Để nó chỉ là một công cụ của điện. Nó đang nhảy múa. Nó đang nhảy lên. Nó đang rung lắc... Buông bỏ nó. Thân thể đang kêu khóc. Thân thể đang cười. Để nó một mình làm điều nó thích. Bạn tách rời với thân thể; buông bỏ thân thể. Để cho mọi điều xảy ra cho nó; đừng chống lại. Một số bạn đang kháng cự lại, đừng làm như vậy. Buông bỏ. Đừng kháng cự lại chút nào. Để cho mọi điều xảy ra cho nó... Thân thể phải bị mệt mỏi rã rời. Hợp tác với thân thể. Cho phép mọi điều xảy ra cho nó... Thân thể phải tự nó làm mệt mỏi rã rời. Buông bỏ. Buông bỏ toàn bộ. Để mọi điều xảy ra. Buông bỏ. Buông bỏ. Đừng kháng cự. Thấy rằng bạn không kháng cự. Đừng kháng cự chút nào. Buông bỏ. Buông bỏ hoàn toàn.
Bây giờ còn lại năm phút nữa, cho nên buông bỏ thân thể toàn bộ. Hợp tác với nó trong bất kì điều gì xảy ra với nó. Bất kì điều gì thân thể làm, bạn hợp tác với nó. Để nó cười nếu nó chọn làm vậy. Để nó khóc nếu nó muốn vậy. Để nó nhảy múa nếu nó bắt đầu nhảy múa. Đừng gây chướng ngại, đừng kháng cự. Nếu nó nhảy nhót cứ để nó nhảy. Buông bỏ. Buông bỏ toàn bộ.
(Micro phôn dừng làm việc một chốc khi thao tác viên rời bỏ công việc và tham gia thiền, và Osho phải hướng dẫn thiền mà không có micro phôn.)
Buông bỏ thân thể hoàn toàn. Và cho phép đầy đủ bất kì điều gì xảy ra cho nó. Buông bỏ với toàn bộ sức mạnh của bạn. Buông bỏ. Bây giờ chỉ còn lại hai phút để làm. Cho nên buông bỏ thân thể tuyệt đối... Thân thể tách rời với bạn và bạn tách rời với thân thể. Cho phép mọi thứ xảy ra cho thân thể... bạn tách rời với thân thể. Trong hai phút để thân thể cho chính nó hoàn toàn. Thế rồi chúng ta chuyển sang giai đoạn thứ ba. Buông bỏ, buông bỏ, buông bỏ thân thể theo mọi cách... Thở sâu và buông bỏ thân thể. Để cho thân thể mệt mỏi hẳn. Buông bỏ. Buông bỏ. Buông bỏ. Thở sâu và buông bỏ thân thể... Nếu thân thể nhảy múa để cho nó làm vậy. Buông bỏ nó hoàn toàn... Đem toàn thể sức mạnh của bạn vào nó trước khi chúng ta đi vào giai đoạn thứ ba. Buông bỏ thân thể; buông bỏ. Bây giờ chỉ còn lại một phút, cho nên buông bỏ thân thể hoàn toàn. Và cho phép mọi thứ xảy ra với nó. Trong một phút buông bỏ tuyệt đối. Buông bỏ. Để thân thể la hét, khóc lóc và cười. Buông bỏ hoàn toàn. Để thân thể làm điều nó muốn làm... Các bạn sẽ thấy rõ ràng rằng các bạn là tách rời và thân thể là tách rời. Buông bỏ thân thể tuyệt đối, và thế rồi chúng ta chuyển sang giai đoạn thứ ba. Buông bỏ. Buông bỏ... Hợp tác với nó. Buông bỏ thân thể và đi vào giai đoạn thứ ba.
Giai đoạn thứ ba
Hỏi từ bên trong: "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?" Trong trọn mười phút để thân thể nhảy múa và xoay tròn, để việc thở sâu tiếp diễn và liên tục hỏi bên trong, "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?" Sử dụng bản thân mình đầy đủ và hỏi, "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?" Cứ tiếp tục hỏi với tràn đầy sức mạnh, "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?" Cứ hỏi với tràn đầy sức mạnh, "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?"
Hỏi: "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?" Hỏi với toàn thể sức mạnh của bạn, "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?" Hỏi, "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?" Đem toàn thể năng lượng của bạn cho nó và hỏi, "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?" Đưa vào hành động toàn thể năng lượng của bạn và hỏi, "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?"
Bây giờ còn trong tay năm phút, cho nên dành cho bản thân bạn toàn bộ câu hỏi này, và thế rồi chúng ta sẽ thảnh thơi và nghỉ ngơi. Buông bỏ thân thể và tiếp tục hỏi từ bên trong, "Tôi là ai? Tôi là ai?" Dùng toàn thể sức mạnh của bạn, dùng toàn diện sức mạnh của bạn và hỏi, "Tôi là ai? Tôi là ai?" Đem toàn thể năng lượng của bạn vào nó và hỏi, "Tôi là ai? Tôi là ai?" Sử dụng bản thân bạn tuyệt đối và hỏi, "Tôi là ai? Tôi là ai?" Sử dụng tối đa bản thân bạn và hỏi, "Tôi là ai? Tôi là ai?"
Bây giờ chỉ còn lại ba phút và thế rồi chúng ta sẽ nghỉ, cho nên hỏi mãnh liệt, "Tôi là ai? Tôi là ai?" Làm mệt bản thân bạn đi. Năng lượng đang dâng lên bên trong... "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?" Bây giờ chỉ còn hai phút, cho nên hỏi, "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?" Cứ tiếp tục hỏi, "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?" Hai phút cuối cùng, và thế rồi chúng ta sẽ nghỉ, cho nên đưa vào hành động toàn thể sức mạnh của bạn và hỏi, "Tôi là ai? Tôi là ai?" Năng lượng đang thức dậy bên trong, cho nên để thân thể nhảy múa với sự bỏ mặc. Buông bỏ và hỏi, ''Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?" Để năng lượng bên trong thức dậy đầy đủ và hỏi, "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?" Hoàn toàn phát điên, và hỏi, "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?"... Làm mệt rã rời bản thân bạn, sau đó bạn sẽ thảnh thơi và nghỉ ngơi..."Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?"
Bây giờ phút cuối cùng, "Tôi là ai?" Để thân thể nhảy múa với việc bỏ mặc, nếu nó muốn thế..."Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?" Trước khi chúng ta đi vào thảnh thơi, đem tối đa năng lượng của bạn vào trong nó. Sử dụng bản thân bạn tới mức tối đa trong phút cuối cùng này, và hỏi, "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?" Đừng bỏ lỡ cơ hội này; sử dụng bản thân bạn tới mức tối đa..."Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?" Đưa vào giọt năng lượng cuối cùng của bạn, và thế rồi chúng ta đi vào thảnh thơi, "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?"
Giai đoạn thứ tư
Đó là tất cả, không thêm nữa. Vứt bỏ mọi thứ. Vứt việc thở, vứt thở sâu, dừng mọi hoạt động và nằm ra ở bất cứ chỗ nào bạn đang ở. Những người đang đứng nên giữ việc đứng. Nhưng nếu ai đó muốn nằm ra, người đó có thể nằm... Để mọi thứ tĩnh lặng và yên tĩnh, yên tĩnh và trống rỗng... Không hỏi cũng không làm gì cả. Chỉ nằm ra dường như các bạn chết rồi, dường như các bạn không còn nữa... Cơn bão đã dừng, để lại sau an bình bên trong... Mọi thứ đã được xoá hết... Mọi thứ đều im lặng. Cơn bão đã qua... cho nên nằm và thảnh thơi, thảnh thơi trong mười phút này. Chính trong im lặng này, trong trống rỗng này mà người ta đi tới người mà chúng ta đã từng tìm kiếm... Chỉ giữ nằm thảnh thơi và yên tĩnh... Không còn thở sâu, không còn hỏi "Tôi là ai?" Không làm gì cả. Từ bỏ mọi thứ. Nếu các bạn đang đứng giữ việc đứng. Nếu các bạn đã ngã ra trên đất, vẫn còn như vậy. Cứ nằm nếu các bạn đã ở tư thế đó. Chết trong mười phút này, dường như các bạn không còn nữa... Cơn bão đã qua và có an bình khắp xung quanh. Có im lặng khắp nơi...
Chính trong tĩnh lặng này, trong hư không này mà cái gì đó sẽ xảy ra, hoa nào đó sẽ nở ra, dòng suối an bình nào đó sẽ phun ra, âm nhạc của phúc lạc sẽ được nghe thấy. Chính trong hư không này mà Thượng đế tới. Chờ đợi ngài, chờ đợi, chờ đợi ngài... Cứ nằm, cứ nằm. Chờ đợi, chờ đợi, chỉ chờ đợi. Mọi thứ đều kiệt quệ. Mọi thứ đều trống rỗng... Chờ đợi, chờ đợi. Tôi bây giờ sẽ im lặng trong mười phút. Và trong mười phút này các bạn nằm yên tĩnh.
Dường như các bạn chết rồi, dường như các bạn đã biến mất. Chỉ trống rỗng còn lại. Mọi thứ đều yên tĩnh. Mọi thứ đều an bình. Mọi thứ đều im lặng. Chính trong im lặng này mà Thượng đế tới... Trống rỗng này là cánh cửa qua đó ngài đi vào chúng ta. Chờ đợi, chỉ chờ đợi... Dường như các bạn chết rồi. Dường như các bạn đã biến mất. Cơn bão đã qua để lại đằng sau chỉ an bình và lặng lẽ. Chờ đợi, chờ đợi, chỉ chờ đợi...
Chính trong khoảnh khắc này cái gì đó xảy ra. Chờ đợi một cách im lặng. Chờ đợi một cách im lặng. Mọi thứ đều trống rỗng, hư không. Chờ đợi. Chờ đợi. Chờ đợi... Dường như bạn không còn nữa; nhưng ai đó bên trong vẫn thức. Mọi thứ đều trống rỗng, hư không; nhưng bên trong ánh sáng đang chiếu sáng, thấy, biết và hiểu. Bạn bị xoá sạch, nhưng thực thể nào đó bên trong vẫn thức... Đó tất cả là ánh sáng bên trong. Dòng suối phúc lạc tuôn chảy bên trong. Thượng đế ở rất gần. Chờ đợi. Chờ đợi... Dường như bạn chết rồi. Dường như bạn không còn nữa. Dường như bạn đã biến mất. Dường như bạn bị lau sạch. Làm mất bản thân mình theo cách giọt nước làm mất bản thân nó trong đại dương... Chờ đợi một cách yên tĩnh...
Chính trong việc mất đi này mà người ta lại được, người ta đạt tới. Chỉ chờ đợi. Ánh sáng yên tĩnh và im lặng sáng lên bên trong. Bên trong bạn phúc lạc sâu sắc chói sáng lên. Bên trong bạn dòng sông phúc lạc đang tuôn chảy. Chỉ chờ đợi. Chờ đợi... Phúc lạc sẽ tuôn chảy bên trong. Ánh sáng sẽ hạ xuống bên trong. Chờ đợi, chờ đợi và chờ đợi. Dường như bạn không còn nữa. Dường như bạn chết rồi. Dường như bạn đã biến mất. Mọi thứ đã biến thành hư không.
Và chính trong hư không này bạn có darshan của Thượng đế, viễn kiến của ngài. Chính trong hư không này bạn đạt tới ngài. Chờ đợi. Chờ đợi. Chờ đợi... Nhìn bên trong, ai đó được thức tỉnh. Nhìn vào trong, phúc lạc nào đó đã trở nên biểu lộ - phúc lạc bạn chưa bao giờ biết tới, điều hoàn toàn không quen thuộc và không được biết. Thấy, mọi thớ của bản thể bạn được rót đầy với cái gì đó siêu phàm. Chờ đợi. Chờ đợi...
Bây giờ phúc lạc và một mình. Bây giờ phúc lạc và phúc lạc một mình còn lại. Bây giờ ánh sáng và ánh sáng một mình còn lại. An bình và an bình một mình còn lại. Chờ đợi. Chỉ chờ đợi. Trong khoảnh khắc im lặng thế ngài tới. Trong khoảnh khắc im lặng thế bạn gặp ngài. Chờ đợi. Chờ đợi. Chờ đợi... Ngài, người mà bạn đang tìm kiếm đang ở rất gần bên cạnh. Ngài, người bạn đang tìm kiếm đang ở ngay tầm tay. Chờ đợi. Chỉ chờ đợi. Chờ đợi một cách im lặng.
Bây giờ chậm rãi quay về thế giới của phúc lạc. Bây giờ dần dần quay lại từ thế giới ánh sáng này. Rất nhẹ nhàng rời bỏ thế giới bên trong. Và mở mắt ra rất chậm rãi và từ tốn. Nếu mắt bạn không mở thì che chúng bằng lòng bàn tay và rồi mở chúng nhẹ nhàng. Không ai phải vội vã. Những người đã ngã ra và thấy khó dậy thì trước hết nên thở sâu và thế rồi dậy rất từ tốn. Dậy rất im lặng. Không nói, không gây tiếng động nào. Và những người đứng nên ngồi xuống rất im lặng, và mở mắt từ tốn ra. Quay lại từ thế giới thiền.
Phiên sáng kết thúc.
Chương 8. Khoảnh khắc quyết định ở trong tay
Khá nhiều câu hỏi đã được nhận trong ba ngày qua, tôi muốn hôm nay trả lời ngắn gọn thật nhiều nhất trong số chúng.
Một bạn đã nói rằng khi Vivekananda hỏi Ramakrishna, "Thầy đã thấy Thượng đế chưa?" Ramakrishna trả lời lại, "Có chứ, ta đã thấy thượng đế như ta thấy ông ngay bây giờ." Và người bạn này muốn biết liệu người đó có thể đặt cùng câu hỏi đó với tôi không.
Trước hết, Vivekananda, trong khi đặt ra câu hỏi này, đã không hỏi xin phép Ramakrishna, ông ta đã đặt thẳng câu hỏi này ra. Còn bạn không làm như vậy, bạn chỉ muốn biết liệu bạn có thể làm được như vậy không. Một Vivekananda là cần để nêu ra câu hỏi này. Và nhớ lấy, câu trả lời của Ramakrishna đặc biệt ngụ ý dành cho Vivekananda, ông ấy sẽ không đưa ra cùng câu trả lời này cho bất kì ai khác.
Trong thế giới tâm linh mọi câu trả lời đều rõ ràng mang tính cá nhân, chúng được dành cho các cá nhân có liên quan. Tại đó người trả lời, dĩ nhiên là quan trọng, nhưng người được trả lời cũng không kém phần quan trọng. Người cho là có ý nghĩa, nhưng người nhận, người phải hiểu nó, cũng không kém phần quan trọng.
Rất nhiều người yêu cầu tôi chạm vào họ để cho họ có cùng kinh nghiệm mê say như Vivekananda đã được Ramakrishna chạm tới. Nhưng họ không biết tại sao hàng nghìn người khác, những người mà Ramakrishna đã chạm vào, đã không trải qua cùng kinh nghiệm đó. Để Vivekananda có kinh nghiệm này, Ramakrishna chỉ được năm mươi phần trăm công lao thôi, năm mươi phần trăm kia thuộc về Vivekananda. Đó là công việc năm mươi năm mươi.
Và cũng không nhất thiết là kinh nghiệm này sẽ xảy ra nếu Ramakrishna đã chạm vào Vivekananda vào một ngày khác. Nó đã xảy ra trong một khoảnh khắc đặc biệt, cho nên khoảnh khắc này cũng quan trọng. Bạn không là cùng một người cả hai mươi bốn giờ một ngày. Trong quá trình hai mươi bốn giờ bạn biến thành bất kì số người nào, như vậy. Trong một khoảnh khắc đặc biệt... Vivekananda hỏi, "Thầy đã thấy Thượng đế chưa?" Những lời này đơn giản thế. Điều đó đối với chúng ta dường như chúng ta hiểu điều Vivekananda đang hỏi. Nhưng không, chúng ta không thực hiểu đâu.
Câu hỏi "Thầy đã thấy Thượng đế chưa?" không đơn giản thế, mặc dầu trên bề mặt dường như là ngay cả học sinh lớp một cũng có thể hiểu nó. "Thầy đã thấy Thượng đế chưa?" thực sự là câu hỏi khó. Và Ramakrishna không đơn thuần trả lời câu hỏi của Vivekananda, ông ấy thực sự đáp ứng lại khao khát của Vivekananda, đam mê của ông ấy. Người đã thức tỉnh không trả lời câu hỏi của bạn, họ đáp ứng lại khao khát của bạn, đam mê của bạn. Vivekananda với toàn bộ khao khát của ông ấy, toàn bộ thèm khát của ông ấy về Thượng đế đã đi vào câu hỏi này, và Ramakrishna đơn giản đáp ứng cho người đứng đằng sau câu hỏi này.
Một sáng đẹp trời, Phật tới thăm một làng và ai đó hỏi, "Có Thượng đế không?" Và Phật nói, "Không, không có Thượng đế." Đến giữa ngày một người khác tới ông ấy và nói, "Tôi nghĩ không có Thượng đế. Thầy phải nói gì về điều đó?" Và Phật trả lời, "Thượng đế có chứ." Đến tối người thứ ba nói với ông ấy, "Tôi không biết liệu Thượng đế có hay không. Thầy nói gì?" Với người này Phật nói, "Tốt hơn cả là im lặng đi; đừng nói có hay không."
Một đệ tử của Phật, người đi cùng ông ấy trên chuyến du hành, rất sửng sốt khi ông ta nghe ba câu trả lời khác nhau của thầy mình cho cùng một câu hỏi. Thế là trước khi đi ngủ buổi đêm ông ấy bảo Phật, "Tôi rất đỗi ngạc nhiên bởi những câu trả lời của thầy tới mức tôi dường như phát điên mất. Trong câu trả lời cho cùng một câu hỏi liệu Thượng đế có hay không thầy nói 'không' vào buổi sáng, 'có' vào buổi trưa, và 'chẳng có chẳng không' vào buổi tối."
Phật nói với người đó, "Không câu trả lời nào được trao cho ông cả; chúng đã được dành cho những người có liên quan, những người đã nêu ra câu hỏi của mình. Chúng chẳng liên quan gì tới ông cả. Sao ông nghe chúng? Làm sao ta có thể trả lời cho ông khi ông đã không hỏi những câu hỏi này? Cái ngày ông đem câu hỏi của mình tới thì ông cũng sẽ có câu trả lời." Đệ tử này nói, "Nhưng dẫu sao đi chăng nữa tôi đã nghe câu trả lời rồi."
Thế là Phật nói, "Những câu trả lời đó được ngụ ý dành cho người khác, và chúng hợp với những nhu cầu khác nhau của họ. Người tới gặp ta vào buổi sáng là người tin, người hữu thần, và anh ta muốn rằng ta phải xác nhận niềm tin của anh ta. Anh ta không biết liệu có Thượng đế hay không. Anh ta chỉ muốn thoả mãn bản ngã mình rằng ta cũng hỗ trợ cho niềm tin của anh ta. Anh ta đã tới để kiếm hỗ trợ của ta, xác nhận của ta. Do đó ta nói, 'Không, không có Thượng đế đâu.' Do vậy ta đã làm anh ta choáng tới tận gốc rễ. Anh ta đã không biết Thượng đế; nếu anh ta thực sự biết, anh ta đã không đến ta. Anh ta không biết tìm kiếm xác nhận từ tri thức của mình. Cho dù cả thế giới có phủ nhận Thượng đế, anh ta sẽ nói, 'Có Thượng đế; vấn đề phủ nhận đơn giản không nảy sinh.' Nhưng người này vẫn còn đang truy tìm, tìm kiếm; anh ta không biết theo cách riêng của mình. Đó là lí do tại sao ta phải nói không với anh ta. Thực tế anh ta đã dừng việc tìm kiếm, và ta đã phải cho anh ta cú ngạc nhiên choáng váng để cho anh ta bắt đầu tìm kiếm lại. Người đã tới với ta vào buổi trưa là người không tin, người vô thần; anh ta tin rằng không có Thượng đế. Với anh ta, ta nói, 'Có Thượng đế.' Anh ta nữa, đã dừng việc tìm kiếm; anh ta cũng muốn rằng ta phải xác nhận niềm tin vô thần của anh ta. Còn người tới vào buổi tối thì không hữu thần không vô thần. Cho nên sẽ không thích hợp mà gắn anh ta với bất kì niềm tin nào, bởi vì cả có và không đều gắn với nhau. Cho nên ta đã bảo anh ta rằng nếu anh ta muốn câu trả lời đúng, thì anh ta tốt hơn cả là giữ yên tĩnh và không nói có hay không. Và khi có liên quan tới ông, câu hỏi không nảy sinh, bởi vì ông vẫn còn chưa hỏi câu hỏi của mình."
Tôn giáo là chuyện riêng tư cao độ. Nó cũng giống như tình yêu. Nếu, từ tình yêu, ai đó nói điều gì đó cho người yêu, thì điều đó không cần phải phát thanh ở bãi chợ. Đó là chuyện hoàn toàn thân mật và cá nhân. Và nó mất hết mọi ý nghĩa của nó một khi bạn mang nó ra công cộng. Theo cùng cách này các chân lí tôn giáo đều mang tính cá nhân cao, chúng được truyền cho cá nhân này từ cá nhân khác; chúng không phải là cái gì đó ném theo gió.
Cho nên hỏi câu hỏi đó đi, và hỏi điều bạn cần phải hỏi, nhưng chỉ khi bạn trở thành một Vivekananda, khi bạn có cùng đam mê và mãnh liệt như ông ấy có.
Nhưng một Vivekananda không hỏi xin phép, ông ấy hỏi thẳng câu hỏi của mình.
Một thời gian ngắn trước đây tôi đã ở một thị trấn nơi một thanh niên tới tôi và hỏi liệu anh ấy có nên trở thành sannyasin không. Tôi bảo anh ấy, "Chừng nào bạn cảm thấy thích tư vấn người khác, đừng nhận tính chất sannyas; bằng không bạn sẽ ăn năn. Và sao bạn lôi tôi vào rắc rối này? Điều đấy là để cho bạn quyết định chứ. Cái ngày bạn cảm thấy rằng bạn không thể trì hoãn được nó cho dù cả thế giới có chen vào đường của bạn, ngày đó sẽ là ngày điểm đạo của bạn để mang tính sannyas. Chỉ thế thì tính chất sannyas mới có thể mang lại kết quả và vui mừng, không trước đó." Rồi anh ta hỏi, "Thế về thầy thì sao?" Tôi nói, "Tôi chẳng bao giờ đi tư vấn ai cả. Ít nhất trong cuộc đời này tôi đã không tư vấn ai cả. Và nếu tôi phải tư vấn chút nào, tôi sẽ tư vấn bản thể bên trong riêng của tôi. Sao đi tư vấn người khác? Và làm sao bạn có thể tin cậy vào điều người khác nói? Bạn không thể dựa vào lời khuyên của người khác được.
Bất kì điều gì bạn làm, bạn không thể phụ thuộc vào điều người khác khuyên bạn làm."
Và liệu có gì khác biệt nếu tôi nói rằng có Thượng đế? Điều đó có tạo ra khác biệt gì cho bạn khi bạn đọc nó trong cuốn sách mà Ramakrishna đã bảo với Vivekananda, "Ta thấy Thượng đế còn sinh động hơn là ta thấy ông"? Bạn có thể viết ra cuốn sách khác nói rằng bạn đã hỏi tôi và tôi nói, "Có, có Thượng đế. Và tôi thấy Thượng đế còn rõ ràng hơn tôi thấy bạn." Điều đó có tạo ra khác biệt không? Cho dù cả nghìn cuốn sách nói rằng có Thượng đế, điều đó tất cả đều vô ích. Chừng nào câu trả lời rằng có Thượng đế chưa tới từ bản thể bên trong của bạn, tất cả mọi câu trả lời từ người khác đều sẽ không ích lợi gì cả. Câu trả lời vay mượn sẽ không có tác dụng. Việc vay mượn có thể có ích trong mọi bước đường khác của cuộc sống, nhưng nó sẽ không có tác dụng trong hoàn cảnh về Thượng đế. Cho nên tại sao bạn hỏi tôi? Và làm sao câu trả lời có hoặc không của tôi có thể có ích được cho bạn? Nếu bạn phải hỏi một chút gì, hỏi bản thân mình đi. Và nếu câu trả lời không mà tới từ bạn, thế thì coi nó là định mệnh bắt buộc nó vậy. Thế thì đợi nó một cách im lặng; và sống không có câu trả lời, sống với việc không biết. Nếu bạn có thể sống với việc không biết, thế thì một ngày nào đó câu trả lời sẽ tới trên con đường của bạn.
Và tất cả mọi câu trả lời đều nằm bên trong chúng ta, chỉ nếu chúng ta biết cách hỏi đúng, chỉ nếu chúng ta biết nghệ thuật đặt câu hỏi đúng. Và nếu chúng ta không biết cách đặt câu hỏi đúng và cứ đi hỏi cả thế giới, điều đó sẽ hoàn toàn vô ích. Khi một người như Vivekananda hỏi một câu hỏi và Ramakrishna trả lời nó, không phải là câu trả lời của Ramakrishna giúp đỡ cho Vivekananda. Vivekananda hỏi với khao khát mãnh liệt đến mức câu trả lời của Ramakrishna thậm chí dường như không là của Ramakrishna, mà là của riêng ông ấy, tới từ bản thể bên trong nhất của ông ấy. Đó là lí do tại sao nó có ích, bằng không thì nó chẳng có ích. Khi một người hỏi ai đó một câu hỏi nảy sinh từ rất sâu trong bản thể mình, và sự khẩn thiết của nó tới mức người ta có thể đánh cược cả đời mình cho nó, thế thì câu trả lời nhận được trở thành câu trả lời riêng của người ta, nó không là câu trả lời của người khác nữa. Thế thì người khác chỉ là tấm gương cho người đó, phản xạ câu trả lời riêng của người đó. Nếu Ramakrishna nói, "Có, có Thượng đế," điều đó không thực là câu trả lời của Ramakrishna; ông ấy chỉ phản xạ lại bản thể bên trong của Vivekananda. Và bởi lí do này nó trở thành câu trả lời đích thực, dường như ông ấy đã nghe tiếng vọng riêng của mình, tiếng nói của bản thể bên trong nhất của riêng mình được vọng qua Ramakrishna. Với Vivekananda, Ramakrishna đường như không là gì ngoài tấm gương.
Vivekananda đã đặt cùng câu hỏi này cho người khác trước khi ông ấy tới Ramakrishna. Người đó là Maharshi Devendranath, ông của nhà thơ vĩ đại Rabindranath Tagore. Ông ấy được gọi là Maharshi Devendranath - nhà tiên tri lớn - và ông ấy hay dành cả đêm trên con thuyền trên sông Hằng và làm sadhana của mình - thực hành tâm linh - tại nơi ẩn cư. Vào giữa đêm, bóng tối của trăng hạ huyền, Vivekananda bơi qua sông và trèo vào chiếc thuyền của ông ấy, tròng trành từ đầu nọ tới đầu kia. Vivekananda đẩy cửa vẫn đóng hờ và đi vào trong cabin. Trời tối và Devendranath đang ngồi với mắt nhắm trong suy tư. Vivekananda nắm lấy cổ áo ông ta và lay ông ta. Devendranath thất kinh khi thấy một thanh niên, ướt sũng, bỗng nhiên đi vào trong cabin của mình giữa đêm khuya vắng. Cả con thuyền tròng trành. Ngay khi ông ấy mở mắt ra, Vivekananda trút luôn câu hỏi của mình vào ông ấy, "Tôi ở đây để hỏi liệu có Thượng đế hay không." Devendranath đầu tiên bảo anh ta hãy thảnh thơi và rồi ông ấy cảm thấy lưỡng lự về câu hỏi của người thanh niên này. Bạn có thể hình dung hoàn cảnh khó khăn của người đang giữa đêm thanh vắng bỗng nhiên bắt gặp một thanh niên không quen biết tới chỗ ẩn cư đơn độc của mình bằng việc bơi qua sông và quát vào mình câu hỏi, "Có Thượng đế không?" theo một cách dường như anh ta đang chĩa súng vào ông ấy. Cho nên ông ấy nói, "Đợi một chút và thảnh thơi đi. Và trước hết cho ta biết anh là ai và anh đem cái gì tới đây. Vấn đề là gì?" Và ngay lập tức Vivekananda thả tay nắm cổ áo ông ấy ra, rời khỏi căn phòng và nhảy tùm xuống nước. Khi maharshi hô lên với anh ta, "Nghe đây, anh thanh niên," Vivekananda hô lại, "Lưỡng lự của ông đã nói mọi điều rồi, và bây giờ tôi đi đây."
Lưỡng lự thực sự đã nói mọi điều. Devendranath lưỡng lự nhiều tới mức ông ấy trì hoãn câu hỏi thực "Có Thượng đế hay không". Về sau ông ấy thú nhận rằng ông ấy đã thực sự bối rối bởi vì trước đây chưa bao giờ ông ấy phải đương đầu với câu hỏi này theo cách thức kì cục thế. Trong các cuộc họp công cộng và trong đền chùa và đền hồi giáo mọi người đã hỏi ông ấy các câu hỏi về Thượng đế và tôn giáo và ông ấy đã giải thích cho họ Veda, Upanishad và Gita đã nói gì về điều đó. Cho nên tự nhiên ông ấy phải bước lùi lại trước cách thức hỏi của Vivekananda. Về sau ông ấy thú nhận rằng ông ấy đã thực sự trong tình huống lúng túng, ông ấy không thể nghĩ nổi cái gì khi người thanh niên này đã bắn câu hỏi này vào ông ấy. Và ông ấy cũng nói rằng, "Khi người thanh niên này đã đi rồi, lần đầu tiên tôi biết lưỡng lự của tôi là tôi đã không có câu trả lời."
Cho nên hỏi câu phải hỏi của bạn, nhưng chỉ khi bạn được chuẩn bị cho nó. Tới tôi khi các bạn sẵn sàng hỏi câu hỏi và nhận câu trả lời. Bởi vì vấn đề sẽ không dừng lại với một mình câu trả lời cho câu hỏi. Sau khi Ramakrishna đã trả lời cho ông ấy, Vivekananda không còn là điều ông ấy vẫn là trước khi nêu ra câu hỏi này. Ông ấy đã đi tới lúc đầu là Narendranath và sau câu trả lời của Ramakrishna ông ấy đã biến thành Vivekananda. Hỏi bạn điều cần thiết, nhưng thế thì bạn sẽ phải được chuẩn bị cho thay đổi triệt để thế, thay đổi của toàn thể cuộc đời bạn. Và bạn có thể có câu trả lời. Nhưng nhớ lấy, Narendranath đã không trở về nhà là Narendranath, bởi vì khi Ramakrishna nói, "Có Thượng đế, và ta thấy ông ấy còn rõ ràng hơn ta thấy ông; vì có lúc ta có thể nói rằng ông là không thực, nhưng ta không thể nói như vậy đối với Thượng đế," Vivekananda đã không nói, "Vâng thưa thầy, câu trả lời của thầy là tốt, và tôi đang định trích dẫn thầy trong bài báo trả lời của tôi." Ông ấy đơn giản không thể về nhà như ông ấy đã từng là; câu trả lời đó đã kết liễu ông ấy như ông ấy đã từng là; Narendranath đã bị kết thúc.
Các bạn có thể có câu trả lời; tôi sẽ không có khó khăn gì với bất kì điều gì trong việc trao cho bạn câu trả lời. Nhưng chính bạn mới là người thực sự khó khăn. Cho nên hãy tới khi bạn cảm thấy đam mê thế về nó. Và điều đó sẽ là hay nếu bạn tới theo cách kì cục, trong đêm khuya thanh vắng và túm lấy cổ áo tôi. Nhưng nhớ lấy, vào lúc bạn túm lấy cổ áo tôi, bạn sẽ bị sa vào lưới của tôi, và thế thì bạn không thể chạy thoát được. Đó không phải là thảo luận học thuật nơi vấn đề kết thúc với hỏi và trả lời. Điều đó không là gì cả. Đó là vấn đề của sống và chết; bạn sẽ phải đánh cược chính bản thân cuộc sống của mình.
Một bạn khác hỏi: khi chúng tôi gieo hạt mầm, phải mất thời gian cho nó mọc lên. Còn thầy nói con người là hạt mầm, hạt mầm của tính thượng đế, và rằng con người có thể mọc lên trong tính thượng đế ngay chính khoảnh khắc này, ngay lập tức. Xin thầy giải thích điều dường như mâu thuẫn này?
Chắc chắn là tôi nói điều đó đấy. Khi chúng ta gieo hạt mầm, nó cần thời gian để mọc lên. Nhưng thực sự nó không cần thời gian để mọc, nó cần thời gian chỉ để làm tan rã và tan biến như hạt mầm. Việc mọc xảy ra trong khoảnh khắc; hạt mầm bùng nổ thành việc mọc cây. Nhưng cần thời gian, tất nhiên, cho hạt mầm để tan rã và tan biến như hạt mầm. Cho nên tôi không nói rằng các bạn không thể cần thời gian để làm tan biến như một bản ngã, mà tôi nói rằng Thượng đế không bao giờ cần thời gian cả, ngài tới trong khoảnh khắc. Chẳng hạn, nếu chúng ta đun sôi nước, phải mất thời gian để đạt tới điểm sôi, để được sôi lên ở một trăm độ. Nhưng một khi nước chạm tới điểm sôi, nó biến thành hơi nước chẳng mất thời gian nào. Đó là cú nhảy; ngay khi nước đạt tới điểm sôi, nó lấy cú nhảy; nó biến mất là nước, trở thành hơi. Không phải là nước sẽ biến thành hơi dần dần, từng mẩu một; không, nó biến thành hơi trong một cú, trong một cú nhảy. Tất nhiên, nước cần thời gian để đạt tới điểm sôi. Nó vẫn là nước cho tới khi nó chạm tới điểm không quay lại - một trăm độ. Cho dù tại chín mươi chín độ, nó vẫn còn dưới dạng nước.
Thượng đế là sự bùng nổ - bước nhảy. Ngài là điểm bùng phát. Chừng nào bạn còn chưa đạt tới điểm đó, bạn vẫn còn là một con người, cho dù nỗ lực của bạn, giống như nước, đã đạt tới chín mươi chín độ. Khi bạn đạt tới điểm sôi, bạn sẽ biến thành Thượng đế. Nơi bạn kết thúc, Thượng đế bắt đầu.
Cho nên tôi nói, nó có thể xảy ra vào chính khoảnh khắc này. Tôi ngụ ý gì bởi khoảnh khắc này? Nó ngụ ý rằng nếu chúng ta đã được chuẩn bị để đi tới điểm sôi, thì điều đó có thể xảy ra trong khoảnh khắc. Chẳng phải đã lâu rồi chúng ta đều trong vạc dầu đó sao? Hết kiếp nọ tới kiếp kia chúng ta đã cố gắng để được đun nóng lên theo cách thức thiêng liêng, và chúng ta đã không đạt tới một trăm độ. Bạn cần thêm bao nhiêu thời gian nữa? Bạn chưa lấy đủ thời gian sao? Không, chúng ta đã dùng đủ thời gian rồi; nhưng chúng ta không biết nghệ thuật đun nóng và đạt tới điểm sôi. Ngay cả khi chúng ta đạt tới chín mươi chín độ, chúng ta lập tức quay lại và bắt đầu nguội đi, bởi vì chúng ta sợ một trăm độ. Tôi đã để ý điều đó trong việc thiền bao nhiêu người trong các bạn quay lại sau khi đạt tới chín mươi chín độ.
Điều đáng ngạc nhiên là làm sao những điều tầm thường lặt vặt làm bạn quay lại. Dường như bạn đã định quay lại rồi. Điều đó cũng giống như một người lên tàu hoả để đi Bombay, và thấy hai người đang to tiếng nói chuyện với nhau và người đó từ bỏ cuộc hành trình của mình và trở về nhà lấy cớ là cuộc nói chuyện to quá của hai người kia đã làm nhiễu loạn anh ta và anh ta không đến được Bombay. Hiển nhiên là người này không muốn tới Bombay, vì nhiễu loạn như vậy là không thể tránh khỏi trong cuộc hành trình kiểu như thế này. Nếu người ta phải tới Bombay người đó cứ đi mặc cho những nhiễu loạn tí ti như vậy; người đó không bao giờ từ bỏ cuộc hành trình của mình. Thay vì thế những nhiễu loạn trên đường khích lệ người đó đi nhanh hơn để cho người đó không phải nghe những chuyện tán gẫu vô ích.
Nhưng người ta từ bỏ thiền bởi những lí do rất tầm thường. Người ta từ bỏ bởi vì ai đó kéo họ lại một chút, hoặc chạm vào người họ hoặc ai đó ngã ra đất và bắt đầu khóc. Dường như người đó muốn từ bỏ và do vậy chờ đợi bất kì cái cớ nào để hạ thấp nhiệt tình của mình. Thậm chí một tiếng hét nhỏ cũng trở thành cái cớ lớn cho người đó dừng không thiền thêm nữa. Tiếng hét có liên quan gì tới bạn? Và người đó không biết mình đang bị mất gì, mình đang phải trả giá gì cho những cái cớ lặt vặt đó. Và người đó cũng không biết mình đang nói gì.
Một thời gian ngắn trước đây một người bạn đã gặp tôi trên đường và nói, "Xin thầy yêu cầu những người này ở đây đừng bị kích động nhiều quá, yêu cầu họ chơi nó với âm điệu thấp hơn, bằng không tình huống bùng nổ có thể được tạo ra. Hai người đang thiền bỗng nhiên thành trần truồng." Anh ta nói điều đó khá đáng yêu: rằng người nào đó bực mình bởi vì hai người đã lột quần áo của họ ra, và do vậy tôi nên kìm họ lại.
Mọi người đều trần truồng bên trong quần áo của mình và không ai bực mình về điều đó cả. Bên trong quần áo tất cả chúng ta đều trần truồng và không ai bị quấy rầy cả. Nhưng mọi người đều bị quấy rầy bởi hai người cởi quần áo của họ ra trong khi thiền. Đó là điều nực cười thế. Có thể hiểu được nếu ai đó đã cởi quần áo của bạn ra và bạn tức giận. Nhưng sao bạn tức giận về ai đó cởi quần áo riêng của họ ra? Tức giận là được nếu ai đó đã cướp quần áo của bạn, mặc dầu điều đó nữa cũng là vô nghĩa. Jesus đã nói, "Nếu ai đó lấy đi của ông chiếc áo choàng, cho người đó cái áo sơ mi nữa. Có thể, người đó không thể lấy nữa được bởi vì xấu hổ." Việc phản đối của người đó là được biện minh nếu ai đó đã vứt bỏ áo choàng của mình. Nhưng sao người đó làm mất trí của mình nếu ai đó cởi áo choàng của riêng mình ra? Dường như là người đó chỉ đợi cơ hội ai đó cởi áo choàng của mình ra và người đó làm dịu đi nỗ lực của mình và đổ mọi oán trách lên người kia.
Điều đáng ngạc nhiên là làm sao ai đó định ở trần mà quấy rối việc thiền của bạn được, chừng nào bạn còn chưa quan sát chặt chẽ người đó làm như vậy. Bạn có thiền không hay làm cái gì vậy? Trong thực tế, bạn phải không biết ai cởi quần áo của người đó và điều đang xảy ra xung quanh bạn. Bạn phải làm việc thiền của mình và vẫn còn giới hạn vào bản thân mình. Hay bạn phải quan tâm tới điều người khác làm? Bạn là thợ giặt hay thợ may mà bạn quan tâm nhiều thế tới quần áo của người khác vậy? Lo lắng của bạn là không có cơ sở và vô nghĩa.
Và người cởi quần áo của mình... nghĩ về điều đó. Bạn sẽ biết điều đó nếu bạn được yêu cầu tụt quần áo của bạn ra. Thế thì bạn sẽ biết rằng người ta có những lí do lớn lao để cởi quần áo mình ra; cái gì đó phải đã xảy ra cho người đó để làm như vậy. Có lẽ bạn sẽ không làm điều đó cho dù người ta cho bạn một trăm nghìn ru pi tiền thưởng. Và người này đã cởi quần áo của mình mà chẳng được cúng tặng như vậy, và bạn bực mình một cách không cần thiết. Một lí do mạnh mẽ nào đó phải đã nảy sinh, nhắc nhở người đó làm như vậy. Chúng ta vẫn còn chưa biết cách nhìn và hiểu cuộc sống với sự thông cảm và chăm nom.
Khi Mahavira cởi bỏ quần áo của mình lần đầu tiên, ông ấy bị nhận gạch và đá. Còn bây giờ ông ấy được tôn thờ. Và những người tôn thờ ông ấy đang bán quần áo khắp mọi nơi. Các tín đồ của Mahavira tất cả đều là nhà buôn quần áo. Điều này thật lạ thế. Và chính những người này đã ném đá vào ông ấy. Và để chuộc lỗi về điều đó họ bây giờ bán quần áo để cho không ai bị hướng theo việc ở trần. Các nhà buôn quần áo đều là tín đồ của Mahavira còn bản thân ông ấy thì sống trần. Khi ông ấy cởi bỏ quần áo của mình, ông ấy đã bị đuổi ra khỏi hết làng nọ tới làng kia. Không một làng nào cho ông ấy trú ngụ. Bất kì nơi đâu ông ấy tới, ông ấy đều bị đuổi đi bởi vì ông ấy trần truồng. Và bây giờ ông ấy được yêu mến và tôn thờ - ông ấy, người đã bị từ chối cho trú ngụ - không chỉ trong một làng hay nhà trọ, ông ấy còn không được phép có chỗ trú ngụ ngay cả ở vùng đất hoả táng bên ngoài làng và là nơi xác chết được đem thiêu. Chó hoang được thả ra đuổi ông ấy để cho ông ấy không tới gần làng. Cái gì có đó gây rắc rối cho mọi người? Chẳng có gì ngoại trừ rằng Mahavira đã vứt bỏ quần áo của mình.
Điều đáng ngạc nhiên là đơn thuần vứt bỏ quần áo về phần một người ... Lí do có thể là gì? Nỗi sợ đằng sau điều đó là gì? Nỗi sợ là thực sự khủng khiếp. Chúng ta trần trụi bên trong, chúng ta hoàn toàn bị thoái hoá và nghèo nàn trong bản thể mình tới mức như cảnh tượng về khu chợ trơ trụi - trơ trụi được gắn chặt với nghèo nàn và nghèo khó - nhắc nhở chúng ta về thoái hoá và nghèo nàn bên trong của riêng chúng ta. Không có lí do nào khác hơn điều này.
Và nhớ lấy, tính trần truồng là một điều và tính trần trụi là một điều hoàn toàn khác. Nhìn vào Mahavira không ai có thể nói rằng ông ấy trần truồng cả, ông ấy trông đẹp thế. Và chừng nào còn có liên quan tới chúng ta thì chúng ta trông trần truồng và xấu xí ngay cả trong những bộ áo quần đẹp nhất của mình.
Bạn đã quan sát cẩn thận những người cởi quần áo của họ trong khi thiền chưa? Bạn không dám, mặc dầu bạn phải đã lén nhìn vào họ lúc này lúc khác, bằng không thì bạn đã không tức giận về điều đó và nghĩ về tình huống bùng nổ nảy sinh từ nó. Cùng người bạn đó đã viết cho tôi rằng đàn bà đặc biệt bị quấy rối bởi sự việc này. Điều đó nghĩa là gì? Họ ở đây chỉ để quan sát nếu ai đó cởi quần áo mình ra sao? Họ ở đây để thiền; thay vì họ lén nhìn người khác. Họ đã từ bỏ việc nhớ tới mình, họ đã dừng việc quan sát bản thân mình thay vì vậy họ làm bận rộn mình với việc nhìn xoi mói và rình mò vào những người trần trụi. Thế thì tình huống này nhất định mang tính bùng nổ. Ai yêu cầu bạn để mắt tới họ? Bạn có mắt của mình được bịt kín. Làm sao điều đó thành vấn đề nếu ai đó ở trần? Khi có liên quan tới người ở trần, người đó đã không quan sát bạn chút nào. Nếu một người cởi trần mà tới tôi và phàn nàn rằng sự hiện diện của đàn bà rất gây ngượng nghịu cho người đó, thì điều đó còn thể hiểu được. Điều kì lạ là đàn bà thấy họ trong trạng thái bùng nổ bởi vì anh ấy. Tâm trí bạn chắc lấy làm vui sướng nếu chỉ bạn mới nhìn anh ta một cách cẩn thận. Thế thì được nhiều thứ; tâm trí bạn sẽ cảm thấy sung sướng và nhẹ gánh. Điều đó sẽ tạo ra khác biệt lớn cho bạn. Nhưng dường như là chúng ta quyết tâm tránh xa tất cả những cái thực sự có lợi. Và có lẽ chúng ta khao khát chuốc lấy thảm hoạ. Và không có kết thúc cho niềm tin và quan niệm điên khùng của chúng ta.
Một thời điểm tới trong quá trình thiền, và nó tới theo cách không cưỡng lại được với một số người, khi họ phải cởi quần áo mình ra. Và họ cởi quần áo ra với việc cho phép của tôi. Cho nên nếu bạn muốn bùng nổ, tốt hơn cả bạn nổ vào tôi. Mọi người để trần thân thể mình ở đây đều đã có phép của tôi. Tôi đã đồng ý với hành động của họ. Họ tới tôi và nói rằng trong quá trình thiền họ cảm thấy rằng nếu họ không cởi quần áo ra thì cái gì đó bên trong họ sẽ bị chặn lại. Và tôi đã yêu cầu họ cứ tiến lên mà không cần quần áo. Và đó là điều phải liên quan tới họ, chứ không tới bạn. Cho nên tại sao bạn lo nghĩ về điều đó? Và nếu bất kì ai nhiếc móc họ về điều này, người đó đã làm một việc rất sai. Bạn không có quyền làm như vậy.
Bạn nên hiểu rằng sẽ tới một khoảnh khắc của hồn nhiên khi nhiều điều trở thành cản trở cho tâm trí hồn nhiên. Quần áo bao gồm một trong những ức chế mạnh nhất của con người; chúng tạo nên điều sâu nhất trong những điều kiêng kị. Chúng biểu thị cho một trong những thói quen cổ nhất và hằn sâu nhất của con người. Và một khoảnh khắc tới trong cuộc sống xã hội của chúng ta khi những quần áo chúng ta trở thành biểu tượng cho toàn thể nền văn minh của chúng ta. Nhưng điều đúng tương đương là một khoảnh khắc tới với một số người, không phải cho tất cả mọi người, khi họ cảm thấy như trọng lượng không cần thiết của tâm trí.
Phật mặc quần áo trong cả đời mình, và Jesus cũng vậy. Nhưng Mahavira đã vứt bỏ chúng. Và đã xảy ra việc một người đàn bà dám làm như vậy, như Mahavira, mặc dầu đàn bà vào thời của Mahavira đã không thể dám thế. Mahavira có một số rất lớn các đệ tử nữ, họ còn đông hơn các đệ tử nam. Trong số các đệ tử của ông ấy chỉ có mười nghìn đàn ông và có tới bốn mươi nghìn đàn bà. Nhưng không một đệ tử nữ nào của ông ấy có thể thu được dũng cảm để cởi bỏ quần áo. Đó là lí do tại sao Mahavira đã phải nói rằng những người đàn bà đó phải được sinh ra lần nữa, bởi vì chừng nào họ còn chưa lấy hoá thân thành nam giới thì họ không thể đạt tới được moksha hay giải thoát. Bởi vì người còn sợ việc cởi bỏ quần áo sẽ rất sợ cởi bỏ thân thể. Do đó Mahavira phải đặt ra một luật rằng tự do là không thể có được qua hoá thân nữ giới; đàn bà phải lấy hoá thân nam giới cho ý định này. Không có lí do nào khác cho luật này.
Nhưng cũng đã có những người đàn bà bạo dạn nữa: một người như vậy là Lalla ở Kashmir. Nếu Mahavira mà gặp Lalla thì ông ấy sẽ không đặt ra nguyên tắc như vậy. Lalla ở Kashmir đích xác giống hệt Mahavira; nếu bạn hỏi một người Kashmiri về bà ấy thì người đó sẽ nói, "Chúng tôi ở Kashmir chỉ biết hai cái tên: Allah và Lalla; chỉ hai cái tên thôi." Lalla đã sống trần, và toàn thể Kashmir ngưỡng mộ và yêu mến bà ấy. Trong sự trần trụi của bà ấy mọi người lần đầu tiên thấy cái đẹp và sự hồn nhiên mà đơn giản phi thường. Bà ấy toả ra sự hồn nhiên và niềm vui sướng của trẻ thơ. Nếu Mahavira gặp bà ấy, thì ông ấy đã cứu được vết nhơ dính vào ông ấy. Có vết nhơ trên Mahavira, và đó là ở chỗ ông ấy nói tự do là không thể được qua hoá thân nữ giới. Nhưng Mahavira không chịu trách nhiệm về điều đó, thực sự những người đàn bà quanh ông ấy mới đáng nhận sự trách móc. Thấy họ ông ấy nói, "Làm sao đàn bà có thể vứt bỏ được gắn bó của họ với thân thể nếu gắn bó của họ với quần áo còn mạnh thế? Níu bám của họ vào quần áo bên ngoài mạnh đến mức không thể trông đợi họ gạt bỏ níu bám của mình vào quần áo bên trong, chính là thân thể."
Tôi không yêu cầu các bạn cởi quần áo của mình, nhưng nếu ai đó làm điều đó thì chẳng có lí do gì để cấm người đó bất kì cái gì. Nếu thậm chí trong một trại thiền chúng ta không thể cho phép tự do này - rằng người ta có thể tự do tới mức độ này, nếu người đó quyết chí, thế thì sẽ không thể nào tìm ra tự do này ở bất kì đâu khác trên thế giới này. Và trại thiền được ngụ ý dành cho người tìm kiếm, không cho khán giả. Tại đây chừng nào người ta không chen vào đường của người khác, người đó được quyền theo tự do tuyệt đối của mình. Nếu ai đó xâm phạm vào tự do của bạn, rắc rối bắt đầu, và bạn có lí do để phàn nàn. Nếu ai đó bắt đầu ở trần và đánh vào bạn, nếu người đó làm bạn bị thương, có mọi lí do để kìm người đó lại. Nhưng chừng nào người đó đang làm điều gì đó với bản thân mình, làm việc riêng của mình, bạn không là ai để mà can thiệp vào chuyện của người đó và bạn không có quyền đưa ra bất kì phản đối nào.
Điều chúng ta coi là nhiễu loạn đối với thiền là rất buồn cười. Nếu ai đó ở trần, việc thiền của nhiều người khác bị làm hỏng. Điều không tốt là cứ cố giữ việc thiền què quặt, việc thiền yếu đuối và nhu nhược như thế này. Giá trị của nó là gì? Điều này, rằng nếu người ta không cởi quần áo của mình thì bạn đã làm được nó rồi. Nhưng điều đó là không thể được. Không, bạn phải gạt bỏ những vấn đề nhỏ mọn đó đi, những vấn đề quá mức nhỏ mọn. Sadhana, hay việc theo đuổi tâm linh, là vấn đề của lòng dũng cảm lớn lao. Tại đây chúng ta phải tự mình cởi bỏ hết tầng nọ đến tầng kia, như chúng ta bóc hành. Theo nghĩa sâu sắc nhất của nó sadhana là việc đương đầu với sự trần trụi bên trong nhất của người ta. Không nhất thiết phải cởi bỏ quần áo, nhưng với một số người, đôi khi tình huống có thể nảy sinh khi sẽ cần phải làm như vậy. Và nhớ rằng bạn không thể nghĩ về tình huống này từ bên ngoài được; mà bạn cũng không có quyền để phán xét liệu nó đúng hay không đúng, cũng không bàn tán về nó. Bạn là ai để làm như vậy? Làm sao bạn chen vào việc này? Và làm sao bạn có thể biết về nó được? Bạn có cho rằng những người đuổi Mahavira ra khỏi làng họ là những người độc ác không? Không, họ cũng văn minh và văn hoá như bạn vậy và, giống bạn, họ nghĩ rằng vì ông ấy ở trần nên ông ấy không có chỗ trong họ.
Nhưng chính điều không may là ở chỗ mọi lần chúng ta đều lặp lại cùng sai lầm. Người bạn gặp tôi trên phố đã nói bằng tình yêu và sự thông cảm rằng tôi nên kìm những người này lại đừng để cởi trần ra, bằng không thì việc tham dự vào việc thiền của chúng ta ở Bombay sẽ sụp đổ nhanh chóng. Thì cứ để cho nó sụp đổ đi; cứ để cho không một ai tới cả! Không có nhu cầu chút nào để những người sai tới thiền. Với tôi sẽ chẳng có khác biệt gì nếu chỉ một người đến. Cũng người bạn đó nói rằng đàn bà sẽ tránh xa hoàn toàn; không người nào trong số họ sẽ dự trại nữa. Thì cứ để họ tránh xa ra. Ai bảo họ đến trại này? Đấy là để cho họ quyết định, và quyết định cho chính họ. Và nếu họ chọn tham dự, thì họ có thể làm như vậy theo điều kiện của tôi. Trại này không thể được tổ chức theo điều khoản của họ. Và ngày tôi sẽ tổ chức trại theo điều khoản của bạn, sẽ là tốt nếu các bạn không tham dự nó chút nào. Thế thì tôi sẽ không dùng bất kì cái gì cho bạn cả.
Trại thiền sẽ được cai quản theo điều khoản của tôi. Tôi không tới vì các bạn, mà tôi cũng không thể hướng tôi theo ước muốn của các bạn. Các bạn không thể chỉ đạo và ra lệnh cho tôi được. Các guru, các bậc thầy, những người không còn nữa, trở nên được nhiều người ưa chuộng sau khi họ đã chết và đã qua đời bởi chính lí do là các bạn có thể thao túng và quản lí họ tuỳ ý bạn, họ không thể làm được điều gì cả. Nhưng nếu bậc thầy còn sống, thầy nhất định là khó khăn cho bạn. Đó là lí do tại sao một Mahavira sống bị đánh và một Mahavira chết được tôn thờ trên khắp thế giới. Bậc thầy sống chuyên gây rắc rối phiền hà, bởi vì bạn không thể chặn thầy được, bạn không thể kiểm soát được thầy.
Trong mắt tôi không có lí do nào khác cho việc tới của bạn có tính hợp thức nào ngoại trừ một lí do. Và người tới và người không tới đều không quan trọng gì với tôi cả. Tôi muốn rằng bất kì ai tới cũng đều phải tới với hiểu biết đầy đủ tại sao người đó tới và để làm gì.
Một bạn hỏi: xin thầy giải thích đầy đủ sahaja yoga - vô nỗ lực, tự nhiên và yoga tự phát - nghĩa là gì?
Sahaja yoga là môn yoga khó nhất, bởi vì chẳng có gì khó hơn việc là sahaja - vô nỗ lực, tự nhiên và tự phát. Ý nghĩa của sahaja là gì? Sahaja nghĩa là: để cho bất kì cái gì xảy ra cứ xảy ra, đừng kháng cự lại nó. Bây giờ một người đã trở nên trần trụi; điều này có thể là tự nhiên và dễ dàng cho người đó để là vậy. Nhưng trong thực tế nó đã trở thành khó thế. Mang tính sahaja nghĩa là tuôn chảy như không khí và nước, và không cho phép trí năng chen vào giữa đường của bất kì cái gì đang xảy ra.
Ngay khi trí năng chen vào đường, ngay khi nó can thiệp vào, chúng ta dừng là sahaja, tự nhiên, và bắt đầu là asahaja, phi tự nhiên. Ngay khi chúng ta quyết định cái gì phải là và cái gì không phải là, thì chúng ta lập tức bắt đầu phi tự nhiên. Và chúng ta trở thành tự nhiên khi chúng ta chấp nhận cái xảy ra, cái đang đó.
Cho nên điều đầu tiên cần hiểu là ở chỗ sahaja yoga là yoga khó nhất. Đừng nghĩ rằng nó rất dễ dàng như thuật ngữ này gợi ý. Có quan niệm sai rằng sahaja yoga là cách thức dễ dàng của sadhana hay kỉ luật tâm linh. Mọi người trích dẫn Kabir: "Sadho, sahaj samadhi bhali; Hỡi người tìm kiếm, cực lạc tự nhiên là điều tốt nhất." Tất nhiên, nó là điều tốt nhất, nhưng nó cũng là điều rất khó. Bởi vì không cái gì khó hơn đối với con người là tự nhiên. Con người đã trở thành phi tự nhiên, con người đã du hành đi xa khỏi việc là tự nhiên đến mức bây giờ thật dễ dàng cho con người phi tự nhiên và rất khó để là tự nhiên.
Nhưng thế thì chúng ta phải hiểu đôi điều trong hoàn cảnh này, bởi vì điều tôi đang dạy chính là bản thân sahaja yoga.
Áp đặt học thuyết và giáo điều lên cuộc sống là làm suy đồi cuộc sống. Nhưng tất cả chúng ta đều làm điều đó; tất cả chúng ta đều áp đặt các học thuyết và lí tưởng lên bản thân mình. Ai đó bạo hành và người đó đang cố gắng là bất bạo hành. Ai đó giận dữ và người đó đang cố an bình. Ai đó độc ác và người đó đang cố tốt bụng. Kẻ trộm đang cố làm người hào phóng, và kẻ ác cố thánh thiện. Đây là cách tất cả chúng ta đang là; chúng ta bao giờ cũng cố gắng áp đặt cái gì đó lên cái chúng ta đang là. Nhưng kết quả là gì?
Chúng ta không chỉ thất bại khi chúng ta không thành công theo nỗ lực này, chúng ta thất bại cả khi chúng ta thành công nữa. Bởi vì dù kẻ trộm có cố gắng đến đâu, người đó cũng không thể hào phóng được; người đó tất nhiên có thể đem cho từ thiện và người đó có có ảo tưởng về việc hào phóng; nhưng tâm trí của kẻ trộm bao giờ cũng tìm ra cách để trộm thông qua từ thiện.
Tôi đã nghe nói rằng hiền nhân Eknath có lần đi hành hương. Khi ông ấy sắp sửa rời khỏi làng mình thì một tên trộm ở chỗ ông ấy bày tỏ ước muốn đi cùng ông ấy trong cuộc hành hương này. Anh ta nói từ khi anh ta phạm tội, anh ta đã rất mong muốn gột sạch tội lỗi của mình bằng việc đầm mình vào sông Hằng linh thiêng. Eknath nói, "Tôi không phản đối việc đi cùng của ông với tôi, vì tất cả những người đi với tôi đều là kẻ trộm thuộc đủ mọi loại, nhưng có khó khăn đấy. Những kẻ trộm khác này nói rằng tôi không nên đem ông đi cùng vì họ sợ ông sẽ đánh cắp các thứ của họ và gây cho họ rắc rối. Cho nên ông có thể đi cùng với một điều kiện kiên quyết là ông sẽ không say mê ăn cắp trong khi đi hành hương." Anh ta nói, "Tôi xin thề, tôi sẽ không ăn cắp trong cuộc hành hương - từ đầu tới cuối."
Khi cuộc hành trình bắt đầu tên trộm gia nhập nhóm người hành hương của Eknath, cũng toàn là trộm cắp cả. Họ đều là trộm cắp thuộc các loại khác nhau. Tất cả mọi tên trộm đều không thuộc cùng một loại. Một loại trộm làm việc như các quan toà và các loại trộm khác hoạt động theo cách khác. Đủ mọi loại trộm, kể cả tên trộm này, đều đi hành hương.
Khi cuộc hành trình bắt đầu, tên trộm nghèo cảm thấy rất không thoải mái. Thói quen trộm cắp cũ của anh ta và lời hứa của anh ta với Eknath đã đẩy anh ta vào rắc rối. Anh ta trải qua ngày, nhưng đêm thật khó khăn. Khi những người hành hương khác ngủ rồi, anh ta cảm thấy bứt rứt, bởi vì đây là giờ làm việc của anh ta. Bằng cách nào đó anh ta cũng trải qua được một hay hai ngày nhưng đến ngày thứ ba anh ta tự nói với mình, "Mình sợ cuộc hành hương này sẽ kết liễu mình mất, vì nó kéo dài hàng tháng trời. Làm sao mình chịu được lâu thế? Và nguy hiểm lớn nhất là ở chỗ mình có thể quên mất nghề của mình nếu mình không ăn cắp nhiều tháng ròng. Nếu vậy, mình sẽ làm gì khi mình về nhà? Cuộc hành hương rồi sẽ kết thúc; nó không thể kéo dài cả đời được."
Thế là rắc rối bắt đầu với đêm thứ ba. Đó là một loại rắc rối tôn giáo và có trật tự. Anh ta ăn cắp, nhưng theo một phong cách hoàn toàn mới và khác biệt. Anh ta lấy từ túi của người hành hương này và để chúng vào túi của người khác; anh ta chẳng lấy gì cho mình cả.
Sáng hôm sau mọi người hành hương đều tức giận. Từng người trong họ đều bị mất cái gì đó mà sau đó lại được tìm thấy trong túi của ai đó khác. Có năm mươi cho tới một trăm người hành hương - con số khá lớn - và thật khó định vị mọi thứ. Mọi người đều phân vân, họ không thể biết tất cả điều đó là cái gì. Đồ không biến mất, nhưng chúng tất cả đều đã đổi chỗ. Thế rồi điều đó làm loé lên ý nghĩ cho Eknath rằng điều đó có thể là việc làm của cùng một kẻ trộm, người đã trở thành người hành hương. Thế là ông ấy thức vào đêm. Sau nửa đêm ông ấy thấy cũng tên trộm đó rời khỏi giường và bỏ các thứ từ túi này sang túi khác. Eknath tới giữ anh ta lại và hỏi, "Này, anh làm gì vậy?" Người này nói, "Tôi biết tôi đang có lời thề rằng tôi sẽ không ăn cắp, và tôi giữ lời thề của mình. Tôi không ăn cắp đồ vật, tôi chỉ thay đổi chỗ của chúng. Tôi không lấy cái gì cho mình cả; tôi chỉ bỏ nó từ túi này ra và đặt nó vào túi khác. Và điều này chắc chắn không thuộc vào lời cam kết của tôi với ông."
Eknath hay nói về sau rằng dù tên trộm có thể cố gắng thay đổi bằng cách nào, điều đó cũng chẳng khác biệt.
Tất cả những điều phi tự nhiên của cuộc sống chúng ta đều là điều này - rằng chúng ta bao giờ cũng cố gắng để khác với cái chúng ta đang thực là. Không, sahaja yoga sẽ nói, đừng cố gắng khác hơn điều bạn đang là; biết điều bạn đang là và sống nó. Nếu bạn là kẻ trộm biết rằng bạn là kẻ trộm và sống cuộc sống của kẻ trộm một cách đầy đủ. Điều này rất gian nan, bởi vì ngay cả kẻ trộm cũng cảm thấy được hài lòng khi nghĩ rằng mình đang cố gắng gạt bỏ việc trộm cắp. Người đó không gạt bỏ bản thân mình thực sự khỏi điều đó, nhưng người đó cảm thấy được nhẹ nhõm để nghĩ rằng mặc dầu mình là kẻ trộm hôm nay mình sẽ thôi là kẻ trộm ngày mai. Ngay cả bản ngã của kẻ trộm cũng nhận được sự hài lòng từ ý nghĩ rằng mặc dầu người đó bị ép buộc bởi hoàn cảnh mà phải trộm cắp, một ngày nào đó sẽ sớm đến khi người đó sẽ là một người nhân đức, và không là kẻ trộm. Cho nên trong hi vọng vào ngày mai người đó thoải mái ăn trộm hôm nay.
Sahaja yoga nói rằng nếu bạn là kẻ trộm thế thì biết rằng bạn là kẻ trộm đi và cứ trộm cắp một cách có hiểu biết về điều đó, nhưng không với hi vọng rằng ngày mai bạn sẽ thôi là kẻ trộm. Và nếu chúng ta biết đúng điều chúng ta đang thực là, nếu chúng ta chấp nhận bản thân mình như chúng ta đang là và thực tế sống với nó, thế thì cuộc cách mạng có thể xảy ra ngay hôm nay. Nếu kẻ trộm nhận biết đầy đủ rằng mình là kẻ trộm thì người đó không thể vẫn còn là kẻ trộm lâu được. Trong thực tế, chính cách thức của người đó để tiếp tục là kẻ trộm là ở chỗ người đó nói rằng mình không thực là kẻ trộm, và trong những hoàn cảnh tốt hơn trong tương lai người đó sẽ không là kẻ trộm nữa. Ý tưởng hay lí tưởng này làm cho anh ta vẫn thoải mái là trộm; anh ta ăn trộm và vậy mà vẫn còn không phải là kẻ trộm. Người khác nói rằng anh ta không bạo hành, chính là hoàn cảnh đã buộc anh ta phải bạo hành. Ai đó khác nói rằng anh ta mất bình tĩnh bởi vì người khác xúc phạm anh ta, bằng không anh ta không phải là người giận dữ; anh ta bị buộc thành giận dữ. Anh ta thậm chí xin tha thứ; anh ta nói, "Xin tha thứ cho tôi, anh trai ơi, tôi cũng ngạc nhiên làm sao tôi đã dùng những lời lẽ thế để chống lại anh. Tôi không thực là người ngạo mạn đâu." Do vậy lòng tự hào của anh ta, bản ngã anh ta được khôi phục lại. Trong thực tế, tất cả mọi ăn năn đều là cách để khôi phục bản ngã. Người giận dữ này cứu lấy bản ngã mình bằng việc cầu xin tha thứ.
Sahaja yoga nói: Biết rằng bạn là điều bạn đang là, và đừng cố gắng đi xa khỏi nó cho dù một li; đừng cố gắng khác với nó theo cách thức nhỏ nhặt nhất. Và khoảnh khắc bạn trở nên nhận biết hoàn toàn về tội lỗi của nó, nỗi đau của nó, nỗi khổ của nó, nỗi cơ cực của nó, ngọn lửa địa ngục của nó, bạn sẽ lập tức nhảy ra khỏi nó và bạn sẽ được tự do với nó không cần thời gian nào; bạn sẽ phải thoát ra ngoài nó một cách toàn bộ.
Nếu kẻ trộm biết bản thân mình một cách đầy đủ là kẻ trộm và không nuôi dưỡng trong tâm trí mình cho dù một ý nghĩ nhỏ nhặt nhất rằng mình sẽ thôi là kẻ trộm; nếu người đó biết rằng mình là kẻ trộm hôm nay và người đó sẽ là kẻ trộm vĩ đại hơn ngày mai, bởi vì trong hai mươi bốn giờ thói quen của người đó sẽ được làm mạnh thêm; nếu người đó chấp thuận định mệnh của mình là kẻ trộm một cách hoàn toàn và với hiểu biết đầy đủ, bạn có cho rằng người đó có thể vẫn còn là kẻ trộm cho dù lấy một khoảnh khắc không? Nhận biết này rằng mình là kẻ trộm sẽ chìm vào trong tim người đó giống như viên đạn và nó sẽ đơn giản là không thể được cho người đó để sống với hoàn cảnh này cho dù một khoảnh khắc. Trong chính khoảnh khắc đó cách mạng sẽ xảy ra, chuyển hoá sẽ xảy ra.
Nhưng chúng ta rất láu lỉnh, và chúng ta có những phương cách láu lỉnh riêng của mình. Chúng ta là kẻ trộm và chúng ta mơ trở thành người nhân đức, và đây là cách những giấc mơ này giúp chúng ta vẫn còn là kẻ trộm liên miên. Thực tế các giấc mơ của chúng ta vận hành giống như cái giảm xóc có đó giữa hai giá chuyển hướng của ô tô ray để hấp thu những cú xóc của chuyển động. Cái giảm xóc hấp thu xóc và hành khách được bảo vệ khỏi bị thương. Giấc mơ của chúng ta cũng giống như cái giảm xóc trong xe mô tô. Khi chiếc xe chạy trên đường gập ghềnh, nó hấp thu những cú xóc và quí ông trong xe được cứu khỏi bị đau và không thoải mái. Tương tự các học thuyết và nguyên tắc làm việc như tầng đệm và hấp thu xóc trong cuộc sống của chúng ta. Tôi là kẻ trộm và tôi giữ ý tưởng về không ăn cắp. Tôi bạo hành và tôi có bất bạo hành làm khẩu hiệu của mình; tôi nói bất bạo hành là điều cao nhất của tôn giáo. Lí tưởng này là tầng đệm của tôi, nó giúp tôi vẫn còn bạo hành. Bởi vì bất kì khi nào tôi phải đương đầu với sự kiện về bạo hành của mình, tôi sẽ tự nói với mình, "Bạo hành gì? Mình là người tin vào bất bạo hành; bất bạo hành là tôn giáo cao nhất cho mình. Nếu thỉnh thoảng mình đi lệch khỏi nó, đấy là vì mình yếu đuối; nhưng mình định đạt tới lí tưởng của mình ngày mai hay ngày kia. Và cho dù mình không làm được trong kiếp này, mình sẽ làm nó trong kiếp sau. Nhưng bất bạo hành vẫn còn là ngôi sao dẫn đường của mình."
Có thể chứ, tôi mang lá cờ bất bạo hành trên khắp thế giới, và liên tục bạo hành bên trong. Lá cờ này là sự trợ giúp cho bạo hành của tôi.
Dù bất kì đâu bạn bắt gặp một người có dán nhãn bất bạo hành là cao nhất, biết điều chắc chắn rằng người bạo hành đang ở quanh đâu đó. Không thể có lí do nào khác cho dấu hiệu hay lá cờ bất bạo hành; nó bao giờ cũng tới cùng người bạo hành. Bất bạo hành là cái mộc để che giấu bạo hành và duy trì nó. Con người có đủ mọi loại phương cách, và chỉ các phương cách, nhiều tới mức con người đánh mất bản thân mình trong đám đông của mình.
Mang tính sahaja, là tự nhiên nghĩa là: cái đang hiện hữu, cứ hiện hữu: bây giờ không có cách nào để bước ra khỏi nó; mình phải sống nó; và mình sẽ sống nó, là nó.
Nhưng việc hiện hữu này và sống với cái đang đó, đau đớn tới mức điều đó gần như không thể được. Bạn có biết bạn sẽ làm gì nếu bạn bị ném xuống địa ngục không? Bạn sẽ thấy với ngạc nhiên của mình rằng chỉ với giúp đỡ của giấc mơ của mình, bạn mới có thể sống được trong địa ngục. Bạn sẽ nhắm mắt lại và chôn vùi bản thân mình trong mơ và mơ. Bạn đã nhịn ăn một ngày chưa? Thế thì bạn biết mình đã trải qua giấc mơ ngày của mình về thức ăn và chỉ thức ăn thế nào. Mơ về thức ăn giúp cho bạn vượt qua việc nhịn ăn của mình. Nếu bạn dừng mơ bạn sẽ phải kết thúc việc nhịn ăn của mình ngay lập tức. Nhưng giấc mơ rằng bạn đang ăn ngon vào sáng hôm sau giữ cho bạn trải qua việc nhịn ăn.
Tôi nhớ tới một giáo sư là đồng nghiệp của tôi ở đại học. Chúng tôi đã cùng làm việc một thời gian dài. Cùng làm việc với anh ta một thời gian dài tôi để ý rằng thỉnh thoảng anh ta bỗng nhiên bắt đầu nói về đồ ngọt. Tôi phân vân khi thấy rằng anh ta nói về đồ ngọt chỉ thỉnh thoảng thôi, và thế rồi tôi quan sát anh ta cẩn thận và thấy ra rằng cứ vào thứ bảy là anh ta say mê nói về đồ ngọt.
Một thứ bảy, khi anh ta tới đại học, tôi bảo anh ta rằng tôi chắc chắn anh ta sẽ nói về đồ ngọt cả ngày hôm đó. Anh ta giật mình và nói, "Sao anh nói vậy?" Thế rồi tôi bảo anh ta, "Trong hai tháng qua tôi đã ghi lại về anh điều nói lên rằng mọi thứ bảy anh đều đem đồ ngọt vào các cuộc nói chuyện. Có phải là anh nhịn ăn vào thứ bảy không?" Vị giáo sư này giật mình và anh ta buột mồm nói ra, "Nhưng ai bảo anh về điều đó?"
Rồi tôi bảo anh ta, "Không cần biết ai nói với tôi về điều đó; đấy là phát hiện riêng của tôi."
Anh ta nói, "Đúng là tôi đã nhịn ăn hôm thứ bảy, nhưng làm sao anh có thể biết được điều đó?" Để giải thích điều đó tôi nói, "Tôi nghĩ rằng một người khoẻ mạnh bình thường, người ăn và uống tốt thì sẽ không nói về thức ăn như cách anh vẫn làm vào thứ bảy. Và tôi biết rằng anh ăn tốt, và vậy mà cứ vào thứ bảy anh luôn luôn nói về những đồ ăn ngon theo cớ này cớ khác." "Anh đã nắm được nó đúng đấy," anh ta thừa nhận. "Vào thứ bảy tôi chỉ toàn nghĩ về thức ăn; thực sự tôi vẫn lập kế hoạch cả ngày tôi sẽ ăn gì ngày hôm sau. Đây là cách tôi vượt qua ngày nhịn ăn của mình. Vào thứ bảy tôi nhịn ăn."
Thế rồi tôi gợi ý rằng anh ta nên nhịn ăn ngày nào đó mà không nghĩ tới thức ăn, anh ta nên chỉ nhịn thôi. Và anh ta nói, "Điều này thì không thể được; thế thì việc nhịn sẽ phải bị từ bỏ mất. Chính nhờ sự giúp đỡ của những ý nghĩ này về thức ăn mà tôi mới có khả năng vượt qua thời gian nhịn. Hi vọng vào ngày mai làm cho tôi trải qua việc nhịn ăn hôm nay; bằng không thì điều đó là không thể được."
Người bạo hành liên tục mang tính bạo hành trong hi vọng rằng mình sẽ không bạo hành một ngày nào đó. Người giận dữ liên tục giận dữ với hi vọng rằng mình sẽ là người tốt bụng và từ bi trong tương lai. Kẻ trộm liên tục là kẻ trộm với hi vọng rằng mình sẽ hào phóng về sau. Tội phạm vẫn còn là tội phạm với hi vọng rằng người đó sẽ đức hạnh ngày hôm sau. Những hi vọng này là rất phi tôn giáo. Được kết thúc với chúng đi. Cái đang hiện hữu, cứ hiện hữu. Biết điều này cái đang hiện hữu và sống với nó. Cái đang hiện hữu là một sự kiện; sống với sự kiện đó. Sống với tính sự kiện của cuộc sống của bạn.
Nhưng sống với sự kiện là điều rất gian truân, vất vả và đau đớn. Sẽ rất đau cho tâm trí khi nghĩ rằng mình không phải là người tốt. Cho nên người có dục đọc những cuốn sách về brahmacharya, vô dục; đó là cách người đó chịu đựng dâm dục của mình. Người đó đang bị thiêu đốt bởi những ham muốn dục, và người đó đọc sách về vô dục và tin rằng mình là người tìm kiếm vô dục. Cuốn sách này về brahmacharya giúp người đó tiếp tục dâm dục. Người đó nói rằng chỉ hôm nay người đó say mê trong dục, từ ngày mai người đó sẽ cương quyết theo lời thề của mình về vô dục. Cho nên điều đó không xấu, người đó hợp lí hoá.
Có lần tôi ngẫu nhiên làm khách trong một gia đình. Ông già trong gia đình đó bảo tôi rằng ông ấy đã ba lần được điểm đạo vào brahmacharya bởi một sư nào đó. Tôi ngạc nhiên khi nghe điều đó, và tôi nói với ông ấy, "Người ta lấy lời thề vô dục một lần là đủ rồi. Làm sao ông phải lấy những ba lần cơ chứ?" Ông ấy hỏi tôi với cảm giác không thoải mái, "Ông định nói gì? Tôi đã nói cho vài người bạn về điều đó và họ tất cả đều khen ngợi tôi vì làm điều đó những ba lần. Không ai đã hỏi về hành động của tôi ngoại trừ ông." Tôi nói, "Lời thề vô dục chỉ có thể được lấy một lần thôi. Làm sao mà ông đã phải lấy nó những ba lần?" Ông ấy nói rằng bởi vì ông ấy đã không giữ được lời thề của mình, nên ông ấy đã phải lấy nó hai lần và lần thứ ba nữa. Và khi tôi hỏi, "Thế lần thứ tư thì sao?" ông ấy nói, "Đến lần đó tôi đã không còn dũng cảm nữa; tôi đã mất tự tin rồi."
Vào lúc ông già này bị kết thúc với lời thề của mình ông ấy đã tới độ tuổi sáu mươi. Ông ấy mang dâm dục của mình với sự giúp đỡ của lời thề về brahmacharya.
Chúng ta là những người rất kì lạ. Đây là asahaja yoga, yoga phi tự nhiên, mà chúng ta thực hành. Chúng ta đều có dâm dục và chúng ta đọc các sách về brahmacharya. Sách về brahmacharya có tác dụng như tầng đệm trong mối quan hệ với dâm dục của chúng ta. Đọc nó, chúng ta tự nhủ mình ở chỗ riêng tư, "Ai nói mình dâm dục? Vì mình đọc sách về vô dục, chính là lí tưởng của mình, mình thực sự là người vô dục chứ. Nếu mình mê say chút ít trong dục hiện tại, thì đấy là vì yếu đuối của mình, bởi vì nghiệp quá khứ của mình hay có thể bởi vì thời điểm đúng còn chưa tới. Nhưng nó sẽ sớm trôi qua thôi." Đây là cách dục và vô dục đi đôi với nhau; vô dục phục vụ như cái hấp thu xóc và lái dục theo sự thoải mái cứ tiếp diễn mãi.
Đây là trạng thái rất phi tự nhiên của mọi thứ. Để quay về với trạng thái tự nhiên bạn sẽ phải loại bỏ cùng lúc tầng đệm và cái hấp thu xóc. Nếu có ổ gà trên đường, bạn phải biết chúng. Lái xe mà không có bộ giảm xóc hay bộ hấp thu xóc mà xem. Thế thì chính ổ gà đầu tiên sẽ giết chết bạn, sẽ va mạnh vào xương bạn, và bạn sẽ ra khỏi xe ngay và nói lời tạm biệt nó. Thế thì bạn sẽ không lái cái xe đó lần nữa. Bỏ nhíp xe đi và rồi lái nó xem. Chính việc va vào tảng đá cuội sẽ đánh ngã bạn và bạn sẽ bái biệt ngay chiếc xe. Và bạn sẽ không dùng chiếc xe đó lần thứ hai nữa. Nhưng bộ hấp thu xóc lắp ở dưới đáy xe không để cho bạn phải chịu khổ sở như vậy.
Sahaja yoga nghĩa là: cái đang hiện hữu, cứ hiện hữu; cứ là nó. Đừng cố gắng phi tự nhiên. Biết cái đang đấy, chấp nhận nó và sống với nó. Thế thì cuộc cách mạng là chắc chắn. Người chấp nhận cái đang đó và sống nó thì nhất định sẽ thay đổi. Thế thì không có cách nào để trải qua sáu mươi năm trong dục và dâm dục mặc cho lời thề vô dục. Lời thề là cách thức của dâm dục. Nếu tôi đã xúc phạm bạn trong cơn giận của mình và tôi không xin lỗi về điều đó, ngược lại tôi cứ tới bạn và nói rằng đấy là cách tôi đang là, tôi là loại người sai trái, người dễ dàng nổi giận..."Tôi có thể làm điều đó lần nữa đấy, cho nên sao tôi phải xin lỗi? Và bạn nên biết rõ điều đó nếu bạn muốn tiếp tục là bạn tôi "... Bạn có cho rằng tình bạn của tôi sẽ sống không? Tất cả bạn bè tôi sẽ rời bỏ đi, tất cả mọi mối quan hệ của tôi sẽ gặp khó khăn và tôi sẽ bị bỏ lại sống một mình với giận dữ của mình. Thế thì giận dữ sẽ là bạn duy nhất của tôi; không ai sẽ ở quanh tôi để chịu đựng cơn giận của tôi. Thế thì tôi sẽ phải sống một mình và toàn bộ với cơn giận dữ của tôi. Tôi sẽ có thể sống được với nó không? Không, tôi sẽ nhảy ra khỏi nó, bằng việc nói "Nó điên khùng làm sao!"
Nhưng chúng ta có những phương cách riêng của mình. Chồng cãi nhau với vợ vào buổi sáng và gọi vợ là con mụ lẳng lơ và xông về văn phòng của mình. Anh ta trở về vào buổi chiều với kem và bộ áo quần sari lụa để phỉnh phờ cô ấy. Và vợ nghĩ rằng anh ta vẫn là người chồng đáng yêu cũ. Chồng, qua ăn năn, khôi phục lại mối quan hệ của mình với vợ, anh ta trở lại nơi chiếc cà vạt đã bị vứt đi. Và với kem và bộ quần áo sari lụa trong tay cô ấy, người đàn bà lần nữa lại trở thành người vợ cũ tốt bụng. Nhưng câu chuyện này sẽ lặp lại bản thân nó vào buổi tối theo cách nó đã xảy ra vào buổi sáng. Và vào buổi tối chồng sẽ lại quì xuống và van xin tha thứ của vợ. Và sáng hôm sau sẽ lại không khác. Cùng câu chuyện này lặp lại hết ngày nọ tới ngày kia, hết tháng nọ sang tháng kia, hết năm nọ sang năm kia. Do vậy nó chạy qua cả đời.
Cả chồng lẫn vợ đều không được chuẩn bị để biết sự thật của họ, chân lí của họ. Họ không được chuẩn bị để đối diện với thực tại, sự không thành thực và lừa dối có trong cuộc sống thường ngày của họ. Không xem xét tới điều đó trong một khoảnh khắc họ liên tục lừa dối lẫn nhau. Và giống như đôi này, tất cả chúng ta đều liên tục lừa dối lẫn nhau trong cả đời mình. Và điều còn tồi tệ hơn, chúng ta không chỉ lừa dối người khác mà chúng ta còn tự lừa dối mình.
Sahaja yoga nghĩa là: không tự lừa dối mình. Biết và chấp nhận bản thân mình đích xác như bạn đang đấy và như cách bạn đang là mà không có bất kì dè dặt nào. Nếu bạn làm như vậy, chuyển hoá sẽ xảy ra ngay lập tức. Chuyển hoá xảy ra đồng thời với hiểu biết và chấp nhận. Thế thì bạn sẽ không phải chờ đợi nó. Người ta có đợi đến mai không nếu nhà người đó cháy và người đó biết điều đó? Người đó sẽ thoát ngay ra khỏi nhà mình trong một phần giây. Cái ngày chúng ta hoàn toàn thấy cuộc sống của mình như nó đang đó - và nó là ngôi nhà đang cháy - thì khoảnh khắc của chuyển hoá tới. Nhưng chúng ta có cách thức lừa dối riêng của mình. Ngôi nhà đang cháy và chúng ta đã trang hoàng phần bên trong nó bằng hoa. Tay chúng ta trong xiềng xích và chúng ta mạ chiếc xiềng này bằng vàng, và do vậy khi chúng ta thấy sự lộng lẫy của vàng chúng ta không thấy xiềng xích. Chúng ta đầy những ốm yếu và vết thương, nhưng chúng ta đã che đậy các vết thương của mình bằng băng mầu, và chúng ta thấy mầu sắc chứ không thấy vết thương đằng sau chúng.
Lừa dối này sâu sắc và bao la tới mức chúng ta dành cả đời mình cho nó và khoảnh khắc của chuyển hoá không tới. Chúng ta cứ trì hoãn khoảnh khắc đó. Cái chết tới, nhưng không khoảnh khắc nào bị trì hoãn cả. Chúng ta chết, nhưng chúng ta không thay đổi; chúng ta đơn giản không có khả năng thay đổi.
Thay đổi, chuyển hoá có thể xảy ra bất kì khoảnh khắc nào một cách thực sự. Sahaja yoga nói: sống với cái đang đấy, và bạn sẽ được biến đổi. Bạn không phải làm nỗ lực thay đổi; chân lí thay đổi. Jesus nói, "Chân lí giải thoát." Nhưng chúng ta không biết chân lí. Chúng ta sống trong dối trá, chúng ta sống trong cái không thực; nhưng chúng ta trang hoàng cho cái không thực của mình trước khi chúng ta sống với chúng. Và cái không thực trói buộc, trong khi chân lí giải thoát. Ngay cả chân lí đau đớn nhất cũng còn tốt hơn dối trá dễ chịu nhất. Cái không thực dễ chịu mới thực sự nguy hiểm. Nó sẽ trói buộc bạn; nó sẽ là tù túng của bạn. Và ngay cả chân lí đau đớn cũng là giải thoát, ngay cả cái đau của nó cũng là giải thoát. Cho nên sống với chân lí đau đớn, và đừng nuôi dưỡng dối trá dù chúng có thể dễ chịu thế nào. Đây là toàn bộ sahaja yoga.
Đây là toàn bộ sahaja yoga. Và thế rồi tới samadhi, cực lạc hay thức tỉnh, hay bất kì cái gì bạn gọi nó. Bạn sẽ không phải tìm kiếm samadhi đâu; nó sẽ tới theo cách riêng của nó.
Khóc khi bạn muốn khóc, và cười khi bạn muốn cười, và biết rằng nó đang xảy ra.
Tôi nghe nói rằng ở Nhật Bản một bậc thầy chết và hàng nghìn người tụ tập để dự đám tang của ông ấy; ông ấy nổi tiếng thế. Nhưng ông ấy có một đệ tử còn nổi tiếng hơn ông ấy. Và khi mọi người tới họ thấy rằng đệ tử nổi tiếng này của ông ấy đang ngồi ngoài trời và khóc cay đắng. Họ nói với ông ta, "Chúng tôi lấy làm kinh ngạc khi thấy ông khóc, bởi vì chúng tôi nghĩ rằng ông là một trong những người chứng ngộ. Sao ông phải khóc?" Đệ tử này nói, "Các ông ngu lắm, tôi không định thôi khóc vì các ông nói tôi chứng ngộ đâu. Việc khóc là điều hoàn toàn khác. Giữ chứng ngộ của các ông cho chính mình đi; tôi không cần nó đâu." Thế rồi khách nói, "Nhưng mọi người sẽ nói gì? Nếu ông không thể chấm dứt việc khóc được thế thì đi vào bên trong đi; đừng khóc chỗ công khai thế này. Bằng không điều đó sẽ làm phát sinh tai tiếng. Chúng tôi tin rằng ông đã đạt tới trạng thái cân bằng hoàn hảo, trạng thái của tri thức tối thượng. Chúng tôi tin rằng ông là một trong những người trí huệ nhất, và rằng chẳng cái gì có thể ảnh hưởng được tới ông - cả hạnh phúc lẫn nỗi buồn."
Thế rồi đệ tử này nói, "Các ông hiểu điều đó sai tuốt. Chính là trước khi chứng ngộ thì rất ít điều ảnh hưởng được tới tôi, bởi vì nhạy cảm của tôi còn mờ nhạt và tôi không thể bị tấn công được và khó đương đầu. Bây giờ mọi thứ đều ảnh hưởng tới tôi từ đầu nọ tới đầu kia, cho nên tôi sẽ khóc từ tậm tim mình. Tôi chẳng bận tâm về điều các ông nói, về chứng ngộ của các ông. Vứt nó ra ngoài cửa sổ đi."
Nhưng như những người sùng kính vẫn làm, họ tiếp tục thuyết phục ông ấy và nói, "Ông nên nghĩ tới hổ thẹn mà điều đó sẽ gây ra. Cho nên cho dù ông phải khóc, thì khóc một cách riêng tư, bí mật; bằng không những tin đồn ác ý sẽ lan khắp nước." Một trong những người sùng kính thách thức, "Ông bao giờ cũng nói rằng linh hồn là bất tử, thế thì tại sao ông khóc than?"
Thế rồi hiền nhân này nói, "Ai khóc cho linh hồn? Tôi đang khóc cho thân thể của thầy tôi; tôi không khóc cho linh hồn, cái còn mãi và vĩnh hằng. Thân thể nữa, cái bị mất đi khỏi thầy tôi thật xinh đẹp và, và bây giờ nó sẽ không còn trở lại với đất nữa. Ngôi đền trong đó linh hồn của thầy tôi cư ngụ cũng không kém phần đáng yêu, và nó sẽ không xảy ra lần thứ hai. Tôi đang khóc cho thân thể đó." Và khi người sùng kính này thách thức, "Vậy là ông khóc cho thân thể!" thì đệ tử chính này nói, "Ông có định áp đặt điều kiện cho việc khóc không đấy? Ông sẽ không cho phép tôi khóc sao?"
Chỉ một tâm trí đúng đắn, một tâm trí đích thực, một tâm trí sống trong chân lí, mới có thể là tâm trí tự do. Tâm trí đúng đắn là tâm trí đích thực, nghĩa là khóc khi bạn muốn khóc và cười khi bạn muốn cười. Nếu bạn phải giận dữ thì hoàn toàn đích thực trong giận dữ của bạn đi. Nếu bạn giận dữ thì trở thành bản thân việc giận dữ để cho bạn và tất cả mọi người quanh bạn biết giận dữ là gì. Giận dữ đó sẽ là việc giải thoát; nó sẽ giải phóng bạn thình lình. Thay vì giận dữ trong một lúc, từng tí một theo cách hờ hững, giận dữ một lần cho dứt khoát, để cho nó thiêu cháy bạn và thiêu cháy những người khác quanh bạn và bạn biết nó tất cả là gì. Thông thường cơn giận của chúng ta hờ hững thế, nhạt nhẽo thế, không đích thực đến độ chúng ta không biết cơn giận đích thực và thực sự là gì. Chúng ta giận dữ một phần và một phần không giận dữ; chúng ta giận dữ theo từng mảnh; và đó là điều làm cho nó không đích thực. Hành trình cuộc sống của chúng ta là ở mức chúng ta bước lên rồi lại bước lùi; cho nên chúng ta đi bây giờ ở đây, chúng ta vẫn còn tĩnh tại và trì trệ. Thực sự không có hành trình; chúng ta chỉ trì trệ và sống vô vị.
Sahaja yoga nói: bất kì cái gì có đó trong cuộc sống, chấp nhận nó, biết nó và sống nó. Từ chấp nhận này, từ việc biết và sống này sẽ tới điều chúng ta gọi là chuyển hoá hay biến đổi. Và chuyển hoá này sẽ đưa bạn đạt tới Thượng đế.
Điều tôi gọi là thiền, và điều chúng ta có ở đây, là quá trình của sahaja yoga. Tại đây các bạn chấp nhận tất cả mọi điều xảy ra cho mình, các bạn buông bỏ bản thân mình hoàn toàn và chấp nhận tất cả mọi điều xảy ra theo cách riêng của nó. Bằng không thì sẽ không thể nghĩ được rằng những người có giáo dục và có văn hoá, những người giàu có và sành điệu cứ khóc lóc và gào thét, nhảy nhót lung tung và nhảy múa điên dại như người rồ. Đây không phải là điều bình thường. Đây là cái gì đó phi thường và vô giá nữa. Đó là lí do tại sao khán giả bị hoang mang và người đó không hiểu tất cả những cái đó là gì. Người đó cảm thấy bị sửng sốt và thế rồi người đó cười vào tất cả mọi thứ. Nhưng người đó không nhận biết rằng nếu người đó mà tham gia với các bạn, người đó cũng trải qua cùng những kinh nghiệm kì quái đó. Hay có thể tiếng cười của người đó chỉ là biện pháp bảo vệ, người đó cười chỉ để tự bảo vệ mình, người đó muốn nói qua tiếng cười của mình rằng người đó sẽ không làm điều các bạn đang làm đâu; điều đó không dành cho người đó. Đó là điều người đó nghĩ, nhưng tiếng cười của người đó về phần nó lại nói điều gì đó khác. Nó nói rằng theo một cách nào đó người đó nữa cũng có điều gì đó cần làm với nó. Tiếng cười của người đó nói rằng theo một cách nào đó người đó thực sự có liên quan với nó. Sự buồn cười của người đó chỉ ra rằng nếu như người đó mà tham gia vào điều đang xảy ra ở đây thì người đó sẽ làm cùng những điều này. Người đó nữa cũng đã ngăn cản và kìm nén bản thân mình; người đó nữa đã đè nén nước mắt và tiếng cười của mình, điệu vũ của mình và cực lạc của mình.
Bertrand Russell nói trong những ngày cuối đời của ông ấy rằng nền văn minh đã cướp đi của con người vài điều quí giá và nhảy múa là một trong chúng. Ông ấy nói rằng ông ấy không thể nghĩ được việc đứng giữa quảng trường Trafalgar và nhảy múa, mặc dầu chúng ta vẫn tuyên bố rằng chúng ta là người tự do và rằng chúng ta có nhiều tự do hơn tổ tiên mình đã từng có. Ông ấy cũng quan sát rằng một mặt con người đã bô bô rằng thế giới đã đi vào kỉ nguyên tự do và tự quyết và mặt khác con người không được tự do nhảy múa ở bãi chợ, và nếu con người làm như vậy thì cảnh sát giao thông lập tức sẽ bắt người đó với tội danh cản trở giao thông. Và hơn nữa người đó sẽ bị coi là ca bệnh tâm thần. Bertrand Russell cũng nhớ lại rằng bất kì khi nào ông ấy tới thăm những bộ lạc nguyên thuỷ nhảy múa một cách phóng túng dưới trời sao thì ông ấy đau đớn nhận ra rằng con người văn minh đã thực sự đánh mất điều có giá trị đó.
Cái được của nền văn minh là nhỏ còn cái mất của nó thì lớn vô cùng. Con người văn minh đã đánh mất tính tự nhiên và đơn giản của mình, con người đã đánh mất chính bản tính mình. Và, còn hơn thế, con người là nạn nhân của đủ mọi loại hư hỏng.
Thiền là cách làm cho bạn thành tự nhiên và đơn giản, khôi phục bạn trở lại với tự nhiên của mình một lần nữa.
Điều cuối cùng tôi muốn nói là ở chỗ điều đã xảy ra ở đây trong ba ngày này có ý nghĩ lớn lao. Một số bạn đã có kinh nghiệm duy nhất và số khác đã có thoáng nhìn về chúng, trong khi vài người khác đã làm nhiều nỗ lực, nhưng không thể có được nó, mặc dầu chắc chắn họ đã có tiến bộ nào đó. Nhưng mọi người đã làm chút ít điều tốt ngoại trừ vài người có ảo tưởng rằng họ là các nhà trí thức và người trong thực tế có ít thông minh và nhiều tri thức sách vở hơn. Ngoại trừ vài người này, mọi người đã tham dự vào thiền, và mặc cho nhiều khó khăn một loại năng lượng đặc biệt đã được tạo ra ở đây và nhiều điều đã xảy ra có ý nghĩa.
Nhưng đây chỉ mới là bắt đầu.
Nếu bạn dành một trong hai mươi bốn giờ hàng ngày của bạn cho việc thiền này, một cánh cửa có thể mở ra cho cuộc sống của bạn. Đóng bản thân bạn vào trong một căn phòng trong trọn một giờ và bảo với mọi người trong gia đình bạn đừng lo nghĩ về điều có thể xảy ra trong một giờ đó. Thế rồi cởi quần áo ra và hoàn toàn trần trụi và làm việc thiền trong tư thế đứng. Trải chiếc chiếu lên sàn nhà để cho bạn không bị thương trong trường hợp bạn ngã ra. Đứng dậy và thiền, nhưng trước khi làm điều đó, thông báo với các thành viên gia đình bạn rằng nhiều điều có thể xảy ra bên trong phòng này - bạn có thể la hét, bất kì điều gì cũng có thể xảy ra - nhưng họ không nên quấy rối bạn. Và tiến hành thực nghiệm này hàng ngày trong trọn một giờ cho tới khi chúng ta gặp lại nhau tại trại tiếp. Nếu các bạn đã tham gia vào trại này ở đây mà tiếp tục thực hành này tại chỗ của mình, tôi sẽ bàn đến một trại tách biệt cho họ, nơi tiến bộ lớn sẽ là điều có thể.
Có khả năng lớn lao; khả năng thực tế là vô tận. Nhưng bạn sẽ phải làm vài nỗ lực... Nếu bạn tiến lên một bước, Thượng đế sẽ tiến một trăm bước tới bạn. Ngài bao giờ cũng sẵn sàng tới với bạn. Nhưng nếu bạn không tiến bước nào, thế thì chẳng có cách nào để giúp bạn cả. Cho nên đem việc thiền này về nhà và tiếp tục thực hành nó đều đặn và nhiệt tình.
Tôi biết nhiều điều sẽ ngăn cản các bạn. Con bạn sẽ nói, "Có chuyện gì xảy ra với bố thế? Bố chưa bao giờ như thế này cả; bố bao giờ cũng bạo dạn và nghiêm chỉnh. Và bây giờ bố đang nhảy múa và nhảy nhót và la hét. Bất kì khi nào chúng con làm huyên náo trong nhà, bố luôn luôn giao việc cho chúng con. Tất cả điều này là gì vậy?" Trẻ con chắc chắn sẽ cười bạn. Bạn nên yêu cầu chúng ta tha thứ vì bạn đã cố gắng kiểm soát chúng trong quá khứ, thừa nhận sai lầm của bạn một cách cởi mở và bảo chúng cứ chơi đùa và nhảy múa một cách tự do để giữ cho thiên hướng tự nhiên của chúng sống động cho việc nhảy múa và chơi đùa. Điều đó sẽ là ích lợi lớn cho chúng trong tương lai. Chúng ta áp đặt tuổi già lên con trẻ quá sớm. Cho nên bảo gia đình bạn đừng tò mò và tọc mạch về điều bạn làm trong căn phòng này trong một giờ, và đừng biện minh với bạn về lí do này. Nếu một khi bạn làm điều đó thành rõ ràng, sẽ không có rắc rối trong tương lai. Trong vài ngày họ sẽ quen với chuyện của bạn, họ sẽ để cho bạn với chính bạn.
Và thế rồi bạn sẽ thấy rằng thiền có hiệu quả của nó không chỉ lên bạn mà lên cả gia đình.
Nếu có thể, dành một căn phòng tách biệt cho thiền, và dùng nó chỉ riêng cho thiền. Đừng dùng căn phòng đó cho bất kì ý định nào khác. Nó có thể là một căn phòng nhỏ, nhưng giữ cho nó được khoá lại. Nếu bất kì thành viên nào của gia đình bạn muốn tham gia cùng bạn, cho phép họ với điều kiện là họ thiền cùng bạn và không làm điều gì khác. Chuyện khác đi nếu không có sẵn một căn phòng tách biệt, nhưng phòng tách biệt cho thiền sẽ có nhiều ưu thế. Nếu nó được dùng chỉ riêng cho thiền, nó sẽ được nạp năng lượng thiền. Và khi bạn vào nó bạn sẽ thấy rằng nó không phải là chỗ bình thường.
Chúng ta phát ra năng lượng của mình vào mọi lúc khắp xung quanh chúng ta; chúng ta gửi ra các tia của năng lượng tinh thần khắp xung quanh chúng ta. Và không gian bao quanh chúng ta, ngay cả bên trong căn phòng, cũng hấp thu năng lượng này. Đó là lí do tại sao vài nơi vẫn còn là linh thiêng trong hàng nghìn năm. Nếu một người như Mahavira, Phật hay Krishna ngồi ở một chỗ đặc biệt, chỗ đó nhận rung động phi thường của ông ấy, tác động siêu phàm của ông ấy, cái có thể kéo dài hàng nghìn năm. Từ chỗ như vậy việc người ta đi vào trong thế giới khác, thế giới tâm linh, trở nên dễ hơn nhiều.
Mọi người thực hành tốt - và tôi có tiêu chuẩn riêng để phán xét người thực hành tốt và đó là ở chỗ người đó có ngôi đền trong nhà mình, bằng không thì người đó là người cùng khổ - phải có ngôi đền trong một phần ngôi nhà của người đó. Ít nhất một phòng trong mọi ngôi nhà nên được dành riêng và được dùng làm ngôi đền, như cánh cửa sang thế giới khác. Đừng dùng căn phòng đó cho bất kì cái gì khác. Vào nó một cách im lặng và dùng nó cho thiền. Các thành viên khác của gia đình dần dần sẽ bắt đầu quan tâm tới thiền, bởi vì thế thì những thay đổi mà nó sẽ tạo cho bạn cũng sẽ bắt đầu biểu lộ ra.
Bây giờ mọi người đã bắt đầu đi tới vài người ở đây, những người đã kinh nghiệm những thay đổi trong chính họ, những thay đổi rất có ý nghĩa, và họ hỏi những người này, "Cái gì đã xảy ra cho anh thế?" Vài người này đến lượt họ tới tôi để hỏi làm sao họ có thể trả lời những người tọc mạch này. Cùng cách mà con bạn, bố mẹ bạn và những người khác sẽ hỏi bạn; họ sẽ trở nên quan tâm thế tới thiền. Và nếu bạn kiên nhẫn đủ lâu với sadhana của mình, thế thì một ngày sẽ không xa nữa khi biến cố trọng đại nhất trong các biến cố sẽ xảy ra trong cuộc sống của bạn - vì điều đó chúng ta phải trải qua vô hạn kiếp sống và điều chúng ta có thể bỏ lỡ trong vô hạn kiếp sống.
Vài năm sắp tới sẽ là những năm rất có ý nghĩa trong lịch sử nhân loại. Bây giờ một nhúm người sẽ chẳng có ích gì trong vấn đề tâm linh. Chừng nào tính tâm linh hùng vĩ còn chưa được sinh ra, chừng nào phong trào tâm linh hùng vĩ và đông đảo còn chưa quét qua trái đất này, chưa tạo ra tác động của nó lên hàng triệu con người, thì sẽ không thể nào cứu được thế giới này khỏi bãi lầy của chủ nghĩa duy vật. Đó sẽ là khoảnh khắc rất rất trọng yếu trong cuộc sống con người; năm mươi năm sắp tới sẽ manh tính định mệnh và quyết định. Hoặc tôn giáo sẽ sống, hoặc phi tôn giáo hoàn toàn, tất cả mọi cái chống lại tôn giáo, sẽ sống. Năm mươi năm này cũng sẽ quyết định về Phật, Mahavira, Krishna, Jesus, Mohammed, Rama và phần còn lại của họ. Tất cả những ngôi sao sáng này sẽ ở một bên cán cân trong khi bên cán cân kia sẽ là đám đông các chính khách điên khùng, các nhà duy vật và những người dốt nát khác nhất quyết lừa dối mình và những người khác nữa. Họ đông về số lượng, trong khi chỉ một nhúm người ở phía bên chỉ trích. Và trong thời gian năm mươi năm một quyết định sẽ được đưa ra.
Cuộc đấu tranh đã diễn ra từ thời thượng cổ đã đạt tới khoảnh khắc quyết định của nó. Và nhìn vào tình huống như nó có được trong hiện tại, không có mấy hi vọng. Nhưng tôi không thất vọng bởi vì với tôi dường như là có thể tìm được cách thức đơn giản và tự nhiên rất sớm sủa mà sẽ tạo ra cuộc cách mạng trong cuộc sống của hàng triệu người về mặt tâm linh.
Vài cá nhân có thể chẳng ích gì trong thời hiện tại. Ngày xưa nếu chỉ một người trở nên chứng ngộ cũng đã đủ rồi. Bây giờ điều này không có tác dụng. Theo góc nhìn của việc bùng nổ dân số lớn vô cùng đang xảy ra trên thế giới này, vài cá nhân không thể làm được việc. Bây giờ cái gì đó hữu hình có thể có chỉ nếu, tương xứng với dân số khổng lồ, hàng trăm nghìn người bị ảnh hưởng và tham gia vào tâm linh. Và điều đó là có thể như tôi thấy nó đây. Nếu vài người tạo nên hạt nhân và bắt đầu làm việc, thế thì Ấn Độ có thể đóng vai trò có ý nghĩa trong khoảnh khắc tranh đấu đó. Đất nước này đã từng nghèo khó và khổ, thoái hoá và nô lệ, bị lạc lối và bị dẫn sai đường, vậy mà mảnh đất này vẫn có những kho báu được gìn giữ tốt với nó. Suốt hàng thế kỉ những người như vậy đã bước đi trên mảnh đất này mà ánh sáng của họ, hương thơm của họ, khao khát của họ đã để lại những rung động trong không trung, đã để lại dấu ấn của họ lên mọi nhành cỏ ở đây. Con người tất nhiên đã đi sai, nhưng cát bụi của đất nước này vẫn còn nhớ tới bước chân của Phật bước đi trên nó. Con người của đất nước này đã đi sai, nhưng cây cối vẫn còn ấp ủ kí ức rằng Mahavira đã có thời đứng dưới bóng chúng. Con người thực sự đã đi sai, nhưng biển cả bao quanh đất nước này vẫn biết một giọng nói khác biệt mà chúng đã nghe trong quá khứ. Con người không nghi ngờ gì nữa đã đi lạc lối, nhưng bầu trời của đất nước này vẫn tràn đầy hi vọng. Mọi thứ vẫn ở đó, chỉ con người phải trở về nhà.
Về sau, tôi đã thường cầu nguyện với hi vọng rằng sự bùng nổ tập thể trong các kiếp sống của hàng triệu người có thể là điều có khả năng. Và bạn có thể giúp ích rất nhiều trong nỗ lực này. Sự bùng nổ như vậy trong cuộc sống riêng của bạn sẽ có giá trị mênh mông không chỉ cho bạn, mà cho toàn thể nhân loại. Với hi vọng này và lời cầu nguyện rằng bạn sẽ không chỉ thắp lên ngọn đèn riêng của bạn, mà ngọn đèn của bạn sẽ giúp cho những ngọn đèn chưa thắp khác được thắp lên, tôi công bố lời chào tạm biệt các bạn.
Tôi biết ơn các bạn đã nghe tôi trong an bình và với tình yêu thế, và tôi cúi lạy Thượng đế đang ngồi bên trong từng người các bạn. Xin chấp nhận lời chào của tôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét